- Các thầy ở đây vẫn đùa, dù là học sinh tiểu học nhưng nếu muốn được gặp cô giáo, các em phải chờ đến THCS. Vì ở đây, thầy giáo là mẹ hiền.
|
Thầy Đỗ Hồng Thái và học trò ở bản 51
|
Trường học chỉ có thầy
Xã vùng biên Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình hầu như tách biệt với bên ngoài, là nơi sinh sống của 18 bản làng người dân tộc Ma Coong.
Địa bàn cách trở, có những bản phải băng rừng mấy tiếng đồng hồ mới đến được, có bản ở cách đường 20 Quyết Thắng cả chục cây số nên đời sống bà con vô cùng vất vả.
Cả xã có hai trường tiểu học nhưng chỉ có một vài bản ở gần trung tâm xã là học sinh được học tập trung tại trường số 1. Các bản còn lại đều có thầy giáo về cắm bản để dạy chữ cho các em.
|
Thầy Nguyễn Văn Thăng đã có hơn 10 năm gắn bó với học sinh ở đây
|
“Trường có tất cả là 38 cán bộ, giáo viên nhưng chỉ có 3 cán bộ nữ làm những công việc văn phòng. 35 người còn lại đều là thầy giáo, mỗi bản 2 người, cùng ăn cùng ở với đồng bào để dạy chữ cho các em tiểu học”, thầy Võ Anh Tuân, hiệu trưởng Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch cho biết.
Ở các bản làng xa xôi, học sinh không được học mầm non vì không đủ điều kiện mở lớp, điều kiện đi lại, ăn ở quá vất vả nên chỉ có các thầy cắm bản. nói vui như thầy Đồ Hồng Thái, giáo viên tại bản 51 thì phải đến cấp 2 các em mới được học cùng cô giáo.
Các em học sinh ở đây chỉ bắt đầu được học tiếng Kinh khi vào lớp 1. Để dạy được, thầy cũng phải học tiếng nói của đồng bào Ma Coong, không chỉ trò mà thầy cũng có thêm “ngoại ngữ”. Không chỉ dạy chữ, nhạc, họa thầy cũng dạy…nốt.
“Trường có tất cả 21 lớp, trong đó chỉ có 1 lớp đơn ở bản Cờ Đỏ, 13 lớp ghép nhóm hai trình độ, 6 lớp ghép nhóm ba trình độ, 1 lớp ghép nhóm bốn trình độ”, thầy Tuân cho biết thêm.
Lớp ghép 4 trình độ ở bản Noồng cũ do thầy Nguyễn Văn Lai đảm nhiệm. có tất cả 7 em học sinh từ lớp 2 đến lớp 5. Cứ đến giờ học, thầy lại chia bảng làm đôi để dạy cho các em học.
Và những lần các thầy phải khóc
|
Các em học sinh ở bản Bụt sau giờ học
|
Trước khi lên đây, có thầy đã có gia đình nhưng có thầy thì chưa. Năm ở bản này, năm khác lại luân chuyển qua bản khác, điện thắp sáng không, sóng điện thoại bản có bản không nên tuổi thanh xuân của một vài người cũng đành ở lại với núi rừng.
Khoảng bốn năm trở lại đây, con đường 20 Quyết Thắng mới thông suốt, trước đó cực lắm. Đường đất vốn đã ngoằn nghèo, dốc dựng đứng, mỗi khi mưa xuống lại lầy lội, sụt lún, xe ga lên lại xoay ngược lại không thể nào đi nổi.
“Năm 2008, tôi một mình vác ba lô lên trường, khi đến cây số 54 thì gặp mưa, đường quá lầy lội nên xe bị lún xuống sâu không sao kéo lên được. Nói các chị đừng cười chứ lúc đó tôi chỉ biết ngồi khóc vì lực bất tòng tâm.
Khóc xong vẫn không kéo được xe lên nên phải ngồi chờ có người đi qua rồi nhờ họ kéo lên giúp. Hồi đó người qua lại cũng “hiếm” lắm nên đi từ sáng mà phải tối mịt tôi mới lên đến nơi”, thầy Đỗ Hồng Thái nhớ lại.
|
Lớp ghép 4 trình độ ở bản Noồng cũ do thầy Nguyễn Văn Lai đảm nhiệm
|
Là thầy giáo cắm bản hơn 10 năm, thầy Nguyễn Văn Thăng nhớ lại những ngày đầu lên đây. Nhớ nhà, nhớ vợ con khiến thầy nhiều lúc muốn bỏ về. Nhưng rồi những ánh mắt trong veo của học sinh lại níu chân thầy lại. Ngót ngét cũng hơn chục năm trời, nếu không yêu nghề thì làm sao trụ được.
Hiện thầy đang dạy tại bản Noồng mới: “ Ở đây không có sóng điện thoại, chỉ lâu lâu mới tìm được điểm rơi, tôi và một thầy nữa cắt cái chai nhựa đóng vào tường để hứng sóng. Mới đầu không quen, cứ nghe chuông báo cuộc gọi, mừng quá chạy lại nhấc lên là kiểu gì cũng mất sóng. Giờ quen rồi nên điện thoại lúc nào cũng cắm tai nghe, có chuông là chỉ việc lại ngồi đó đeo tai nghe vào”, thầy Thăng vui vẻ kể.
|
Học sinh ở Noồng cũ
|
Điều kiện sinh hoạt đã khổ, đau ốm còn khổ hơn bội phần. “Năm 2010, tôi dạy ở Noồng đột nhiên bị đau bụng dữ dội, đi không nổi mà trời lại đang mưa lớn, nước đầu nguồn đổ về khiến con đường độc đạo băng suối về xuôi bị ngăn cách.
Không còn cách nào khác, tôi được ba đồng nghiệp dẫn vượt sông,vì quá đau nên vừa đi vừa khóc, cũng may mà không bị nước cuốn trôi. Lần đó tôi bị viêm dạ dày cấp tính”- thầy Hồ Văn Minh góp chuyện.
Khó khăn là thế nhưng thấy các em học sinh đến lớp đều, đọc thông viết thạo là niềm động viên vô cùng lớn cho các thầy. “Còn sức, còn được phân công tôi vẫn ở lại để dạy những thế hệ tiếp theo”, thầy Minh chia sẻ.
" alt=""/>Thầy giáo bật khóc trên đường đến trường
|
Ông Trần Đại Nghĩa bên chiếc máy cấy...
|
Trong khu xưởng vừa mới dựng lên từ khung sắt và lợp bằng tôn ủ hơi nóng bức, ông Trần Đại Nghĩa với ngón tay to xù xì rót nước mời tôi, trên trán vẫn ướt đẫm mồ hôi.
Với dáng vẻ tất bật, ông Nghĩa bảo: “Sáng có đoàn khách ở Thanh Hóa về xem và đặt mua máy cấy. Tôi phải tiếp họ đến gần 1h chiều mới xong. Bà con lần đầu thấy máy cấy, hỏi nhiều nên mình phải giải thích tường tận”.
Nói rồi ông đứng dậy, dẫn chúng tôi ra xem một chiếc máy cấy vừa hoàn thành công đoạn lắp ráp cuối cùng. Ông bảo: “Nhà báo xem, đơn giản thế này thôi nhưng tôi mất cả chục năm trời nghiên cứu mới xong”.
Ý tưởng ban đầu về chiếc máy cấy cũng đơn giản như con người ông vậy: “Ngày trước, học xong cấp 3, tôi đi học nghề điện tử và về quê mở cửa hàng sửa chữa lặt vặt.
Năm 2000, bên Hàn Quốc tuyển người đi học rồi vào làm cho nhà máy sản xuất nhựa, tôi đăng kí và được đi. Học xong, tôi được về làm trong nhà máy sản xuất nhựa và ống nhựa của họ. Cạnh nhà máy là cánh đồng trồng lúa của những người nông dân Hàn Quốc.
Tại đây, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái máy cấy, họ cấy chỉ một giờ đồng hồ mà bằng nông dân mình làm cả ngày. Lúc đó, trong tôi đã bắt đầu “mơ” về một chiếc máy cấy cho người nông dân Việt Nam”.
Ông Nghĩa kể, ngày nào ông cũng mải miết theo dõi những chiếc máy cầy “kỳ diệu”ấy. Ông đã quyết tâm đến gần và chụp ảnh lại chi tiết của chiếc máy cầy Hàn Quốc để nghiên cứu. Năm 2005, ông Nghĩa về nước.
Sẵn có ít vốn trong tay, ông chuyển sang buôn bán vật liệu xây dựng và mua thêm chiếc ô tô để chạy “dịch vụ”. Công việc nhàn hạ, thu nhập cũng vào loại “khủng” ở vùng quê nghèo Tiền Hải, nhưng trong đầu ông vẫn luẩn quẩn ý tưởng về chiếc máy cấy.
Bán ô tô để… lội bùn
Rồi một ngày, ông gọi người đếm bán chiếc ô tô đi.
Ngày khách đến mua xe, vợ ông ngạc nhiên hỏi lý do, ông bảo ngồi ô tô nhiều đau lưng, lại thêm bệnh tật. Sau đó, ông mua mảnh ruộng rồi tự tay cày, cấy, vợ ông cũng chỉ biết thở dài. “10 người thì có 9 người nghĩ tôi bị dở hơi. Nghe vậy, biết vậy, nhưng việc tôi, tôi cứ làm, thiên hạ nói gì mình cũng kệ” – ông Nghĩa kể.
Ông Nghĩa cứ lầm lũi làm một mình, từ cày bừa, đến cấy hái. Những lúc như thế, ông lại suy nghĩ về chiếc máy cấy. Ông bảo: “Tôi cấy theo cách truyền thống thì ngẫm ra được nhiều vấn đề lắm.
Lúc đó tôi mới hiểu tại sao trên cùng một thửa ruộng lại có chỗ lúa tốt, có chỗ chỉ lưa thưa vài bông.
Ấy là do tay người cấy. Có người khi cấy ấn sâu quá, có người ấn cạn quá nên thửa ruộng khi lúa lớn lên không đều nhau, năng suất sẽ giảm đi… Thế nên, tôi nghĩ, chiếc máy cấy của mình sẽ phải giải quyết được tất cả những khúc mắc đó”.
Ông Nghĩa bắt đầu đi đến những nơi mà người dâ sử dụng máy cấy nhập khẩu để tìm hiểu nguyên lý và tính năng của từng loại máy, loại đất.
Ông thấy chiếc máy cấy to cồng kềnh, phun khói mù mịt đưa xuống ruộng đã “đè” lên nền đất một trọng lượng rất lớn nên khi cấy lại rơi vào tình trạng “cây thấp, cây cao”.
Từ nhận định này, ông Nghĩa bắt đầu thiết kế chiếc máy cấy cho riêng mình. Những bức ảnh từ ngày ở Hàn Quốc được đưa ra làm tư liệu. Không phải kỹ sư, không được đào tạo về máy móc, nhưng những ý tưởng hình dung về chiếc máy cấy luôn được ông vẽ ra, dù rất nguệch ngoạc.
|
|
Thế rồi những chi tiết đầu tiên về chiếc máy cấy được hình thành. Ông Nghĩa xác định, nó phải thật nhẹ để người già cũng có thể đẩy được, cũng phải thật đơn giản để người dân dễ nắm bắt, điều khiển và tất nhiên nó sẽ không có động cơ để tiết giảm chi phí cho người nông dân.
Lúc đó, khung máy đã hoàn tất, ông Nghĩa đã giải được bài toán về cân nặng, về di chuyển máy nhưng để chiếc máy hoạt đông đúng như ý muốn và tạo ra những hàng cấy thẳng tắp, đều đặn thì rất khó.
Từ “tai tiếng” thành nổi tiếng
Ông Nghĩa kể: “Tôi đi tìm các chi tiết máy, có những thứ rất khó tìm. Có lần tôi đến một cửa hàng chuyên bán phụ tùng máy móc, tôi tả cho họ về cái vòng bi mình muốn mua.
Nghe một hồi họ bảo: “Ông tả thế đến bố tôi cũng không tìm được”. Thế là tôi phải chuyển hướng, thấy cái vòng bi nào cũng mua về để thử nghiệm. Vất vả nhất là lúc tôi chế bánh răng cho máy cấy.
Cái thứ ấy rất sẵn trên thị trường, nhưng đem nó về hoạt động không chính xác. Tôi mày mò tự cắt bánh răng theo kích thước mình nghĩ ra, khi lắp vào nó cũng không hoạt động”.
Đang lúc chán nản, thấy cậu con trai đạp xe về tới nhà vứt chỏng chơ ở sân, ông Nghĩa chạy lại và nghĩ sao không lấy bánh răng xe đạp làm thử. Thế là ông lắp cái bánh răng xe đạp vào, máy chạy trơn tru mới lạ chứ.
Tháng 10/2014, ông Nghĩa làm xong chiếc máy cấy đầu tiên và đem thử nghiệm, nhưng thất vọng ngay sau luống cấy thứ hai. Máy gì mà luống cấy chỗ thưa chỗ đậm, chỗ cấy xong cây mạ nổi lên luôn mặt ruộng.
Tối đó về nhà, ông thắp điện nghiên cứu và phát hiện cái mỏ cấy sau khi ấn mạ xuống nó dính bùn và tiện thể nhổ luôn cây mạ lên.
Lại mất thêm mấy tuần mày mò để xử lý chiếc mỏ cấy, ông Nghĩa đưa máy ra thử nghiệm lại và lần này, những luống mạ đã đều tăm tắp. Chiếc máy nhờ có phần bệ được cấu tạo bằng tấm tôn to, phẳng nên di chuyển rất nhẹ.
Thao tác cấy giống như người đi xe đạp dùng tay bóp nhả phanh. Liên tiếp những ngày sau đó, ông Nghĩa đem máy cấy đi thử tại nhiều địa hình đồng ruộng khác nhau, với nhiều nền đất cày ải khác nhau và đều thu được kết quả tốt.
Ông Nghĩa kể: “Lúc tôi đưa máy ra lòng sông cạn, nhiều người đi qua bảo sao thiết kế ra cái máy cào ngao lạ thế?”.
Chiếc máy cấy mà ông Nghĩa ấp ủ bao năm cuối cùng cũng thành công, những lần thử nghiệm sau đó luôn cho kết quả tốt. Công suất nhanh bằng 7-8 người làm, có thể cấy xong 4 sào/ngày.
Do máy không có động cơ nên rất thân thiện với môi trường. Khi sáng chế của ông được phát trên Đài truyền hình Việt Nam cũng là lúc điện thoại của ông luôn trong tình trạng… máy bận.
Ông Nghĩa tâm sự: “Bà con nông dân cả nước gọi về nhiều lắm, ai cũng muốn mua một chiếc để sử dụng, làm không xuể.
Cũng có người đến tìm tôi, họ bảo ưu tiên cho họ mua trước, tiền trả gấp đôi nhưng tôi từ chối. Anh đến sau, anh phải đợi. Mình làm cho bà con nông dân, không thể vì tiền mà khiến bà con thất vọng”.
Chân đất hay chân đi dép thì cũng phải ước mơ Trong suốt cuộc nói chuyện, ông Trần Đại Nghĩa kể với chúng tôi nhiều ước mơ của mình. Nhìn người nông dân đứng trên chiếc máy cấy với niềm tự hào lộ ra trên khuôn mặt, chúng tôi dù có chút “băn khoăn” về những ước mơ tiếp theo của ông thì vẫn thấy được sự quyết tâm đến từ bên trong con người ấy. Ông Nghĩa hóm hỉnh: “Bây giờ họ gọi tôi là “nhà phát minh chân đất” thấy cũng vui. Nhưng mà, “chân đất” hay “chân đi dép” thì đầu tiên vẫn phải ước mơ rồi sau đó mới gắng làm để cho thành hiện thực được”. |
(TheoThanh Sơn/báo Xuân Gia đình & Xã hội)
" alt=""/>Người đàn ông 10 người biết, 9 người bảo...'dở hơi'