a111111.jpg
Ông Saravoot Yoovidhya - CEO Tập đoàn TCP 

Khuyến khích thanh niên Việt Nam phát triển

Nhiều năm qua, TCP Việt Nam đã xây dựng quan hệ đối tác chặt chẽ với nhiều tổ chức thanh niên như: Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam… Doanh nghiệp cũng tích cực phối hợp, tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa hướng tới sự phát triển của thanh niên Việt. 

Trong vai trò đối tác dài hạn của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, TCP Việt Nam đã tôn vinh hơn 133 “Thanh niên Sống đẹp” và 200 thanh niên đặc thù trên toàn quốc trong chương trình “Toả sáng nghị lực Việt”. 

Bên cạnh đó, công ty TCP Việt Nam và nhãn hàng Red Bull đã tổ chức chuỗi chương trình “Ngày hội Thanh niên công nhân - Lan tỏa năng lượng tích cực” ở 6 tỉnh thành tại Việt Nam. Lấy cảm hứng từ tinh thần “Năng lượng tích cực, Húc tung thách thức” của Red Bull, ngày hội chào đón 50.000 thanh niên công nhân trên toàn quốc tham dự, đem tới chương trình thăm khám bệnh miễn phí cho khoảng 16.000 công nhân cùng nhiều hoạt động vui chơi, giải trí và thể thao hấp dẫn; giúp thắt chặt tình bè bạn, nâng cao động lực làm việc và cống hiến của thanh niên công nhân. 

Hợp tác Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, TCP Việt Nam và nhãn hàng Warrior trở thành đơn vị đồng hành cùng Giải thể thao sinh viên Việt Nam mùa 9 (VUG9). Thông qua sự hợp tác nhãn hàng mong muốn tinh thần “Bùng nổ năng lượng, Cháy mọi cuộc vui” được hiện thực hoá. 

a222222.jpg
Ông Saravoot Yoovidhya - CEO Tập đoàn TCP và ông Nguyễn Thanh Huân - Tổng Giám đốc TCP Việt Nam phát biểu tại sự kiện gặp mặt

Không những vậy, dành sự quan tâm đặc biệt cho bóng đá, TCP Việt Nam - Red Bull trở thành đối tác của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam, là một trong những nhà tài trợ hàng đầu của các đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam.

“TCP Việt Nam luôn đồng hành cùng đội tuyển trong mọi trận đấu và truyền động lực họ trong suốt quá trình tập luyện. Hành trình “Chuyến xe Năng lượng Red Bull” trong mùa SEA Games 32 hay chương trình tiễn đội tuyển bóng đá nữ trước ngày ra quân tham dự Giải bóng đá Nữ FIFA World Cup năm nay là minh chứng tiêu biểu cho những nỗ lực của TCP nhằm tiếp năng lượng cho thể thao và các đội tuyển quốc gia”, đại diện TCP Việt Nam bày tỏ.

Đánh dấu cột mốc 5 năm thành lập của công ty TCP Việt Nam, đội ngũ công ty TCP Việt Nam cam kết sẽ đầu tư nhiều hơn nữa cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững và các chương trình trách nhiệm xã hội tại Việt Nam.

Quan tâm đến các vấn đề môi trường và xã hội

Tập đoàn TCP không ngừng đầu tư, phát triển các sáng kiến bảo vệ môi trường bền vững, tập trung vào 3 thách thức: trung hòa carbon, kinh tế tuần hoàn, và quản lý bền vững tài nguyên nước. 

Về trung hòa carbon và kinh tế tuần hoàn, TCP đặt mục tiêu đạt tới trung hòa carbon trong tất cả các hoạt động vận hành tại Thái Lan và các thị trường quốc tế trong năm 2050; giảm thiểu 38% khí thải nhà kính và hướng tới sản xuất bao bì tái chế 100% trong năm 2024. Hiện tại, Tập đoàn đang tích cực làm việc cùng các đối tác, tổ chức môi trường toàn cầu nhằm hỗ trợ thu gom, tái chế các bao bì đã qua sử dụng như: chai thuỷ tinh, lon nhôm và chai nhựa. 

Đối với quản lý bền vững tài nguyên nước, vào năm 2030, TCP đặt mục tiêu cung cấp nước cho môi trường và cộng đồng nhiều hơn lượng nước tập đoàn sử dụng cho hoạt động sản xuất. 

Hoàn thiện danh mục sản phẩm

Nhằm hỗ trợ phát triển sản phẩm mới, có lợi cho sức khoẻ của người tiêu dùng, TCP      đặt mục tiêu đạt hơn 70% tổng danh mục sản phẩm đáp ứng các tiêu chí về sức khỏe của tập đoàn vào năm 2024. Trong đó bao gồm việc tạo ra các sản phẩm có hàm lượng đường thấp hơn và các thực phẩm bổ sung. 

Với các sản phẩm mang thương hiệu Red Bull, tập đoàn ra mắt thành công 2 dòng sản phẩm mới: Nước tăng lực Red Bull Soda tại Thái Lan và Red Bull Thái bổ sung thêm kẽm tại Việt Nam. Ở thị trường châu Á, nhiều thương hiệu mới sẽ được Tập đoàn TCP cho ra đời với định hướng TCP trở thành “ngôi nhà của những thương hiệu chất lượng”. 

Tập đoàn TCP cũng đặt mục tiêu tiếp tục phát triển bền vững tại thị trường Thái Lan và các thị trường toàn cầu với kế hoạch đầu tư 340 triệu USD cho đến năm 2024. Ở Việt Nam, tập đoàn đã mở rộng năng lực sản xuất và văn phòng tại TP.HCM. 

“Ở góc độ tập đoàn, TCP sẽ tiếp tục tăng cường hiệu quả vận hành trong doanh nghiệp với nỗ lực tăng cường chuyển đổi số thông qua ứng dụng công nghệ trong quản lý và phân tích dữ liệu, sản xuất thông minh, quản lý dữ liệu đa kênh đa tầng”, đại diện Tập đoàn TCP chia sẻ.

Bích Đào

" />

Tập đoàn TCP, 5 năm ‘toả sáng nghị lực’ cùng thanh niên Việt Nam

Thời sự 2025-02-01 22:51:38 99638

Việt Nam - một trong những thị trường trọng tâm của tập đoàn TCP 

Ngày 23 tháng 11 năm 2023,ậpđoànTCPnămtoảsángnghịlựccùngthanhniênViệtrực tiếp giải ngoại hạng anh ông Saravoot Yoovidhya - CEO Tập đoàn TCP (tập đoàn sở hữu của các thương hiệu nước tăng lực đến từ Thái Lan: Red Bull và Warrior) đã có chuyến công tác lần đầu tiên tại Hà Nội. 

Chuyến thăm Việt Nam đúng vào dịp kỷ niệm 5 năm thành lập công ty TCP Việt Nam. Tại đây, ông Saravoot Yoovidhya đã tham dự nhiều chương trình và sự kiện quan trọng: gặp gỡ các đối tác chiến lược, cơ quan báo chí; gặp gỡ với lãnh đạo Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam; tham dự lễ tuyên dương “Toả sáng nghị lực Việt”, “Ngày hội Thanh niên công nhân - Lan toả năng lượng tích cực” ở Hà Nội. 

Trong các cuộc gặp mặt, ông Saravoot Yoovidhya khẳng định Việt Nam là thị trường phát triển lâu dài của tập đoàn TCP thể hiện qua: nhiều hoạt động khuyến khích thanh niên phát triển của công ty TCP Việt Nam; gia tăng danh mục sản phẩm cho thị trường châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng; thực hiện các cam kết phát triển bền vững…

a111111.jpg
Ông Saravoot Yoovidhya - CEO Tập đoàn TCP 

Khuyến khích thanh niên Việt Nam phát triển

Nhiều năm qua, TCP Việt Nam đã xây dựng quan hệ đối tác chặt chẽ với nhiều tổ chức thanh niên như: Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam… Doanh nghiệp cũng tích cực phối hợp, tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa hướng tới sự phát triển của thanh niên Việt. 

Trong vai trò đối tác dài hạn của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, TCP Việt Nam đã tôn vinh hơn 133 “Thanh niên Sống đẹp” và 200 thanh niên đặc thù trên toàn quốc trong chương trình “Toả sáng nghị lực Việt”. 

Bên cạnh đó, công ty TCP Việt Nam và nhãn hàng Red Bull đã tổ chức chuỗi chương trình “Ngày hội Thanh niên công nhân - Lan tỏa năng lượng tích cực” ở 6 tỉnh thành tại Việt Nam. Lấy cảm hứng từ tinh thần “Năng lượng tích cực, Húc tung thách thức” của Red Bull, ngày hội chào đón 50.000 thanh niên công nhân trên toàn quốc tham dự, đem tới chương trình thăm khám bệnh miễn phí cho khoảng 16.000 công nhân cùng nhiều hoạt động vui chơi, giải trí và thể thao hấp dẫn; giúp thắt chặt tình bè bạn, nâng cao động lực làm việc và cống hiến của thanh niên công nhân. 

Hợp tác Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, TCP Việt Nam và nhãn hàng Warrior trở thành đơn vị đồng hành cùng Giải thể thao sinh viên Việt Nam mùa 9 (VUG9). Thông qua sự hợp tác nhãn hàng mong muốn tinh thần “Bùng nổ năng lượng, Cháy mọi cuộc vui” được hiện thực hoá. 

a222222.jpg
Ông Saravoot Yoovidhya - CEO Tập đoàn TCP và ông Nguyễn Thanh Huân - Tổng Giám đốc TCP Việt Nam phát biểu tại sự kiện gặp mặt

Không những vậy, dành sự quan tâm đặc biệt cho bóng đá, TCP Việt Nam - Red Bull trở thành đối tác của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam, là một trong những nhà tài trợ hàng đầu của các đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam.

“TCP Việt Nam luôn đồng hành cùng đội tuyển trong mọi trận đấu và truyền động lực họ trong suốt quá trình tập luyện. Hành trình “Chuyến xe Năng lượng Red Bull” trong mùa SEA Games 32 hay chương trình tiễn đội tuyển bóng đá nữ trước ngày ra quân tham dự Giải bóng đá Nữ FIFA World Cup năm nay là minh chứng tiêu biểu cho những nỗ lực của TCP nhằm tiếp năng lượng cho thể thao và các đội tuyển quốc gia”, đại diện TCP Việt Nam bày tỏ.

Đánh dấu cột mốc 5 năm thành lập của công ty TCP Việt Nam, đội ngũ công ty TCP Việt Nam cam kết sẽ đầu tư nhiều hơn nữa cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững và các chương trình trách nhiệm xã hội tại Việt Nam.

Quan tâm đến các vấn đề môi trường và xã hội

Tập đoàn TCP không ngừng đầu tư, phát triển các sáng kiến bảo vệ môi trường bền vững, tập trung vào 3 thách thức: trung hòa carbon, kinh tế tuần hoàn, và quản lý bền vững tài nguyên nước. 

Về trung hòa carbon và kinh tế tuần hoàn, TCP đặt mục tiêu đạt tới trung hòa carbon trong tất cả các hoạt động vận hành tại Thái Lan và các thị trường quốc tế trong năm 2050; giảm thiểu 38% khí thải nhà kính và hướng tới sản xuất bao bì tái chế 100% trong năm 2024. Hiện tại, Tập đoàn đang tích cực làm việc cùng các đối tác, tổ chức môi trường toàn cầu nhằm hỗ trợ thu gom, tái chế các bao bì đã qua sử dụng như: chai thuỷ tinh, lon nhôm và chai nhựa. 

Đối với quản lý bền vững tài nguyên nước, vào năm 2030, TCP đặt mục tiêu cung cấp nước cho môi trường và cộng đồng nhiều hơn lượng nước tập đoàn sử dụng cho hoạt động sản xuất. 

Hoàn thiện danh mục sản phẩm

Nhằm hỗ trợ phát triển sản phẩm mới, có lợi cho sức khoẻ của người tiêu dùng, TCP      đặt mục tiêu đạt hơn 70% tổng danh mục sản phẩm đáp ứng các tiêu chí về sức khỏe của tập đoàn vào năm 2024. Trong đó bao gồm việc tạo ra các sản phẩm có hàm lượng đường thấp hơn và các thực phẩm bổ sung. 

Với các sản phẩm mang thương hiệu Red Bull, tập đoàn ra mắt thành công 2 dòng sản phẩm mới: Nước tăng lực Red Bull Soda tại Thái Lan và Red Bull Thái bổ sung thêm kẽm tại Việt Nam. Ở thị trường châu Á, nhiều thương hiệu mới sẽ được Tập đoàn TCP cho ra đời với định hướng TCP trở thành “ngôi nhà của những thương hiệu chất lượng”. 

Tập đoàn TCP cũng đặt mục tiêu tiếp tục phát triển bền vững tại thị trường Thái Lan và các thị trường toàn cầu với kế hoạch đầu tư 340 triệu USD cho đến năm 2024. Ở Việt Nam, tập đoàn đã mở rộng năng lực sản xuất và văn phòng tại TP.HCM. 

“Ở góc độ tập đoàn, TCP sẽ tiếp tục tăng cường hiệu quả vận hành trong doanh nghiệp với nỗ lực tăng cường chuyển đổi số thông qua ứng dụng công nghệ trong quản lý và phân tích dữ liệu, sản xuất thông minh, quản lý dữ liệu đa kênh đa tầng”, đại diện Tập đoàn TCP chia sẻ.

Bích Đào

本文地址:http://member.tour-time.com/html/096b699729.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Siêu máy tính dự đoán Genoa vs Monza, 02h45 ngày 28/01

Siêu máy tính của Bettingexpert đưa ra dự đoán về nhà vô địch Champions Leaguemùa này sau lượt đi vòng 16 đội, và đó sẽ lại là trận chiến ngôi vương của các đại diện Premier League.

{keywords}
MU của Ronaldo và Messi cùng PSG đều được dự đoán sẽ dừng chân ở tứ kết Cúp C1 mùa này

Liverpool, Man Cityvà PSG có được những lợi thế khác nhau cho trận tái đấu sau khi giành chiến thắng ở lượt đi trước Inter Mian (2-0), Sporting (5-0) và Real Madrid (1-0).

Chưa kể, đương kim giữ cúp Chelsea cũng thắng dễ Lille 2-0, trong lúc các cặp đấu Salzburg vs Bayern, Villarreal vs Juventus, Atletico vs MU, Benfica vs Ajax ở thế cân bằng với những kết quả hòa.

Và theo siêu máy tính thì Man City sẽ được “đền bù” mùa này bằng danh hiệu Champions League đầu tiên sau thất bại Chelsea 0-1 mùa trước.

{keywords}
Man City được dự đoán sẽ ẵm danh hiệu Champions League lần đầu tiên, còn Chelsea thành cựu vương ở vòng bán kết

Đối thủ của đội Pep Guardiola sẽ là… Liverpool nhưng phần thắng sẽ thuộc về đội bóng áo xanh!

Trong khi đó, Chelsea được dự đoán sẽ thành cựu vương ở bán kết cùng với Bayern Munich.

Còn MU của Ronaldo với PSG cùng Messi thì… rủ nhau thua ở tứ kết. Đối với 2 đại diện La Liga, ông kẹ Real Madrid và Atletico được siêu máy tính cược bị loại ngay trận lượt về vòng 1/8 tới đây.

Người phát ngôn của Bettingexpert cho biết: “Sự chờ đợi rất lâu của Pep Guardiola cho thành công Champions League lần nữa sắp kết thúc theo siêu máy tính của chúng tôi”.

Trận lượt về vòng 1/8 Cúp C1 diễn ra vào các ngày 8, 9, 15 và 16/3.

L.H

Ralf Rangnick: MU có hiệp 1 vứt đi, cả đội nên học Elanga

Ralf Rangnick: MU có hiệp 1 vứt đi, cả đội nên học Elanga

Ralf Rangnick thừa nhận, MU chơi quá kém trước Atletico trong hiệp 1, lượt đi vòng 1/8 Cúp C1, thấy rằng cả đội nên lấy sao trẻ Elanga làm gương.

">

MU và PSG được cược bị loại ở tứ kết Champions League

{keywords}Ảnh minh họa

“Cơn bão đại dịch rồi sẽ qua đi, nhưng những lựa chọn hiện tại sẽ thay đổi cuộc sống của chúng ta trong tương lai!”

Loài người đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Những quyết định của người dân và các chính phủ trong vài tuần tới chắc chắn sẽ làm thay đổi thế giới trong nhiều năm tiếp theo. Những quyết định này không chỉ định hình lại các hệ thống y tế, mà còn cả nền kinh tế và các chính phủ trên toàn cầu. Chúng ta cần phải quyết định nhanh chóng và dứt khoát, nhưng cũng cần tính đến những tác động lâu dài của những quyết định này. Khi cân nhắc giữa hai lựa chọn, chúng ta không chỉ nên tự hỏi làm cách nào để nhanh chóng vượt qua đại dịch, mà còn phải cân nhắc cả việc thế giới chúng ta đang sống sẽ ra sao khi đại dịch qua đi. Đúng, cơn bão đại dịch sẽ qua, loài người sẽ sống sót, hầu hết chúng ta sẽ vẫn sống, nhưng chúng ta sẽ sinh sống trong một thế giới hoàn toàn khác.

Nhiều giải pháp khẩn cấp trước mắt sẽ trở thành nguyên tắc gắn chặt vào cuộc sống sau này. Đó chính là bản chất của tình huống khẩn cấp. Giải pháp khẩn cấp sẽ đẩy nhanh các tiến trình của lịch sử. Bình thường, người ta có thể mất tới hàng năm để đưa ra các quyết định, nhưng trong bối cảnh đại dịch, các quyết định có thể được thông qua chỉ trong vài giờ. Các công nghệ bị “ép chín” hoặc thậm chí tiềm ẩn rủi ro vẫn được đưa vào sử dụng, bởi nếu không hành động thì thiệt hại chắc chắn còn lớn hơn rất nhiều. Các quốc gia đang trở thành “chuột bạch” trong các thử nghiệm xã hội quy mô lớn. Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả mọi người đều làm việc ở nhà và chỉ giao tiếp từ xa? Điều gì sẽ xảy ra khi toàn bộ các trường đại học và phổ thông chỉ đào tạo trực tuyến? Thông thường, các chính phủ, doanh nghiệp và các ủy ban giáo dục sẽ không bao giờ đồng ý triển khai những thử nghiệm như vậy. Nhưng hiện tại không còn là bối cảnh thông thường.

{keywords}
Những hình ảnh trong bài viết được chụp từ các webcam quan sát các đường phố của Italy, được một nhiếp ảnh gia có tên Graziano Panfili đang sống trong vùng bị cô lập tìm thấy và chụp lại.

Trong bối cảnh khủng hoảng này, chúng ta đối mặt với hai lựa chọn vô cùng quan trọng. Trước nhất là chọn lựa giữa sự giám sát chuyên quyền hay trao quyền giám sát cho công dân. Thứ hai là chọn lựa giữa sự cô lập mang tính dân tộc chủ nghĩa hay sự đoàn kết toàn cầu giữa các quốc gia. 

Giám sát “dưới da”

Để ngăn chặn đại dịch, toàn bộ người dân cần phải tuân thủ theo các quy định cụ thể về phòng chống dịch. Có hai cách chính để thực hiện điều này. Phương pháp thứ nhất là chính phủ giám sát người dân, và xử phạt những người vi phạm quy định phòng chống dịch. Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, các công nghệ tối tân đã giúp chính quyền giám sát được tất cả mọi người dân tại mọi thời điểm. 50 năm trước, lực lượng phản gián KGB không thể theo dõi 240 triệu người dân Xô Viết 24 giờ mỗi ngày, và lực lượng này cũng không thể phân tích hiệu quả mọi dữ liệu họ thu thập được. KGB hoạt động dựa vào các chuyên gia phân tích và lực lượng nhân sự giỏi nghiệp vụ, nhưng việc cắt cử một điệp viên theo dõi một người dân trên toàn quốc là điều không thể. Giờ đây, các chính phủ có thể dựa vào những bộ cảm biến thông dụng và các thuật toán máy tính xử lý siêu nhanh để giám sát, thay vì sử dụng nhân lực như trước. Trong cuộc chiến chống Covid-19, một số chính phủ đã triển khai những công cụ giám sát mới bằng công nghệ. Đáng chú ý nhất có lẽ là Trung Quốc. Bằng cách giám sát smartphone của người dân, sử dụng hàng trăm triệu camera nhận diện người dân nơi công cộng, cũng như yêu cầu người dân khai báo thân nhiệt và tình trạng sức khỏe, các cơ quan chức năng của Trung Quốc có thể nhanh chóng xác định các trường hợp nghi nhiễm Covid-19, đồng thời còn truy xuất ra được họ đã đi những đâu, tiếp xúc với những ai để xác định người nghi nhiễm nếu cần. Một loạt các ứng dụng di động cũng được triển khai để cảnh báo người dân về những ca nhiễm bệnh ở phạm vi gần để họ chủ động phòng tránh. 

{keywords}
Đấu trường Colosseum ở Rome.

Những công nghệ giám sát kiểu này không chỉ phổ biến ở Đông Á. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu mới đây cũng đã cho phép Cơ quan An ninh Israel sử dụng công nghệ “chuyên dụng” chống khủng bố vào việc giám sát bệnh nhân nhiễm Covid-19. Khi Ủy ban phụ trách của quốc hội phủ quyết, ông Netanyahu đã thông qua bằng một “sắc lệnh khẩn cấp”.

Bạn có thể phản biện rằng những chuyện này đã quá quen thuộc. Trong những năm gần đây, các chính phủ và tập đoàn công nghệ toàn cầu đều đã sử dụng những công nghệ giám sát còn phức tạp hơn để theo dõi và kiểm soát người dân. Tuy nhiên, nếu chúng ta không thận trọng, đại dịch này có thể trở thành một cột mốc quan trọng trong lịch sử công nghệ giám sát người dân. Không chỉ bởi việc các công nghệ giám sát toàn dân từng bị phản đối kịch liệt sẽ được các quốc gia triển khai một cách hiển nhiên, mà công nghệ giám sát thậm chí còn chuyển đổi tinh vi từ “ngoài da” sang “dưới da”.

{keywords}
Quảng trường Beato Roberto ở Pescara

Hiện tại, khi ngón tay bạn chạm vào màn hình smartphone và bấm vào một đường link, các chính phủ mới chỉ muốn biết chính xác bạn đã bấm vào cái gì. Nhưng trong đại dịch Covid-19, mối quan tâm chính của người giám sát đã thay đổi. Các chính phủ giờ đây muốn biết cả nhiệt độ và huyết áp bên dưới lớp da ngón tay của bạn.

Khẩn cấp kiểu “bánh pudding”

Tình huống khẩn cấp buộc chúng ta đối mặt với một trong những vấn đề khi bị giám sát là không ai biết chính xác chúng ta bị giám sát như thế nào, và sẽ dẫn tới điều gì trong những năm tiếp theo. Công nghệ giám sát đang phát triển với tốc độ chóng mặt, và những điều 10 năm trước dường như khoa học viễn tưởng thì nay đã không còn gì mới lạ. Chẳng hạn, chúng ta giả định có một chính phủ yêu cầu mọi công dân phải đeo một chiếc vòng sinh trắc học theo dõi thân nhiệt và nhịp tim 24 giờ mỗi ngày. Dữ liệu giám sát sẽ được lưu trữ và phân tích bằng các thuật toán của chính phủ đó. Các thuật toán tinh vi thậm chí sẽ xác định được bạn bị ốm trước cả khi bạn biết. Chuỗi lây nhiễm dịch bệnh nhờ đó sẽ bị ngăn chặn quyết liệt và hiệu quả hơn. Các hệ thống giả định như vậy được cho là có thể ngăn chặn đại dịch chỉ trong vài ngày. Nghe thật tuyệt vời phải không?

Nhưng mặt trái, đương nhiên luôn tồn tại, sẽ là việc hợp pháp hóa cho một hệ thống giám sát khủng khiếp chưa từng có. Chẳng hạn, khi tôi thường bấm vào link của Fox News hơn là link của CNN để xem tin tức, thông tin đó có thể giúp bạn biết đôi chút về quan điểm chính trị hay thậm chí cả tính cách của tôi. Nhưng nếu bạn biết được cả các dữ liệu về thân nhiệt, huyết áp và nhịp tim khi tôi xem một đoạn video, bạn thậm chí có thể biết điều gì khiến tôi vui hay buồn, thậm chí khiến tôi tức giận. 

Nên nhớ rằng tức giận, vui buồn, chán nản hay yêu thương cũng đều là các hiện tượng sinh học giống như khi chúng ta ho hay bị sốt. Công nghệ xác định được cơn ho cũng có thể nhận biết được khi bạn cười vang. Nếu các tập đoàn công nghệ và các chính phủ bắt đầu thu thập dữ liệu sinh trắc học của chúng ta trên quy mô đại chúng, họ có thể nắm rõ chúng ta nhiều hơn cả chúng ta biết về bản thân. Thậm chí, sau đó họ không chỉ dự doán được cảm xúc của chúng ta, mà còn thao túng được những cảm xúc đó để bán cho chúng ta bất kỳ thứ gì họ muốn, bất kể đó là một sản phẩm hay là một chính trị gia. Giám sát sinh trắc học có thể biến scandal rò rỉ dữ liệu Cambridge Analytica của Facebook trở thành thứ “tối cổ”. Thử tưởng tượng ở một quốc gia độc tài mà người dân bị buộc phải đeo vòng giám sát sinh trắc học, sẽ có những công dân bị ngồi tù vì có những cảm xúc chống đối chế độ, dù họ không hề thể hiện ra nét mặt hay lời nói, hành động.

{keywords}
Quang cảnh một khu nhà của trường đại học ở Lodi, Ytalia.

Đương nhiên, bạn có thể sử dụng giải pháp giám sát sinh trắc học như một biện pháp tạm thời để xử lý tình huống khẩn cấp, và nó sẽ bị vô hiệu khi khủng hoảng qua đi. Nhưng các biện pháp tạm thời sẽ tạo nên những thói quen xấu trong trường hợp khẩn cấp, nhất là khi các tình huống khẩn cấp mới luôn tiềm ẩn và có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Chẳng hạn, đất nước Israel của tôi đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp từ cuộc chiến giành độc lập năm 1948. Điều này hợp thức hóa hàng loạt các biện pháp tạm thời từ kiểm duyệt truyền thông, sung công đất đai, cho đến các quy định về việc làm bánh pudding (tôi không đùa đâu). Dù cuộc chiến đã kết thúc từ lâu, Israel chưa bao giờ tuyên bố chấm dứt tình trạng khẩn cấp và cũng không gỡ bỏ các biện pháp tạm thời năm 1948 (vào năm 2011, chính phủ cuối cùng cũng chấp nhận xóa bỏ nghị định về bánh pudding).

{keywords}
Bãi biển Porto San Giorgio, biển Adriatic.

Ngay cả khi số ca nhiễm Covid-19 đã giảm về 0, một số chính phủ cần thu thập dữ liệu cá nhân vẫn có thể lập luận rằng họ cần giữ các hệ thống giám sát sinh trắc học vì lo ngại sẽ có một đại dịch virus mới, hoặc do có một chủng Ebola mới phát triển ở Trung Phi... Quyền riêng tư đã trở thành một cuộc chiến tại đất nước chúng tôi trong những năm gần đây, và đại dịch Covid-19 có thể là bước ngoặt phân định cuộc chiến. Khi mọi người phải lựa chọn giữa quyền riêng tư và sức khỏe, họ thường sẽ chọn sức khỏe.

“Cảnh sát xà phòng”

Trên thực tế, gốc rễ của vấn đề nằm ở chính yêu cầu mọi người phải lựa chọn giữa quyền riêng tư và sức khỏe, bởi đây là một lựa chọn sai lầm ngay từ cách đặt vấn đề. Chúng ta hoàn toàn có thể và nên có cả quyền riêng tư lẫn sức khỏe. Bằng cách trao quyền cho công dân, chúng ta có thể bảo vệ sức khỏe của mình và ngăn chặn dịch Covid-19 mà không cần thiết lập chế độ giám sát bắt buộc. Trong vài tuần qua, tại Hàn Quốc và Singapore nổi lên là những trường hợp thành công nhất trong việc phối hợp cộng đồng để ngăn chặn dịch corona lan rộng. Mặc dù các quốc gia này vẫn sử dụng một số ứng dụng giám sát, họ chủ yếu dựa vào việc triển khai xét nghiệm trên diện rộng, báo cáo số liệu trung thực và sự hợp tác tự nguyện của quần chúng.

Giám sát tập trung và chế tài xử phạt không phải là cách duy nhất để khiến mọi người làm theo các hướng dẫn phòng dịch hiệu quả. Khi người dân được tiếp cận đủ thông tin một cách khoa học và chính xác, họ sẽ thực hiện nghiêm túc mà không cần có sự ép buộc nào.

Chẳng hạn như việc rửa tay bằng xà phòng. Đây là một trong những tiến bộ lớn của loài người từ trước đến nay về vệ sinh cá nhân. Hành động đơn giản này đã cứu hàng triệu mạng sống mỗi năm. Mặc dù chúng ta coi đó là điều hiển nhiên, nhưng chỉ đến thế kỷ 19, các nhà khoa học mới phát hiện ra tầm quan trọng của việc rửa tay bằng xà phòng. Trước đó, thậm chí các bác sĩ và y tá còn di chuyển từ một ca phẫu thuật này sang một ca phẫu thuật tiếp theo mà không rửa tay. Giờ đây hàng tỷ người rửa tay mỗi ngày, không phải bởi do có một lực lượng “cảnh sát xà phòng” giám sát, mà bởi họ ý thức được những lợi ích sức khỏe. “Tôi rửa tay bằng xà phòng vì tôi đã nghe nói về virus và vi khuẩn, tôi hiểu rằng những sinh vật nhỏ bé này gây bệnh và tôi biết rằng xà phòng có thể loại bỏ chúng”.

{keywords}
Cung điện Hoàng gia Caserta, Italia.

Nhưng để đạt được mức độ tuân thủ và hợp tác như vậy, bạn cần tin tưởng. Mọi người cần tin tưởng vào khoa học, tin tưởng các cơ quan công quyền và tin tưởng vào các phương tiện truyền thông. Trong những năm qua, sự cạnh tranh giữa các đảng phái khiến các chính trị gia trở nên thiếu trách nhiệm, cố tình phá hoại niềm tin của người dân vào khoa học, vào các cơ quan công quyền và các phương tiện truyền thông. Những chính trị gia này còn có thể bị cám dỗ theo chủ nghĩa độc đoán, cho rằng bạn không thể đặt niềm tin theo công chúng để làm điều đúng đắn.

Thông thường, niềm tin đã bị xói mòn trong nhiều năm không thể được xây dựng lại chỉ sau một đêm. Nhưng đây không phải là thời điểm thông thường. Khi khủng hoảng, quan niệm cũng có thể thay đổi nhanh chóng. Bạn có thể xung khắc với anh chị em ruột mình trong nhiều năm, nhưng khi nguy cấp, bạn đột nhiên phát hiện họ vẫn là nơi bạn đặt niềm tin và tình thương, và các bạn vẫn sẵn lòng giúp đỡ nhau. Thay vì xây dựng một hệ thống giám sát mọi công dân, vẫn chưa quá muộn để gây dựng lại niềm tin của người dân vào khoa học, vào cơ quan công quyền và truyền thông. Chắc chắn chúng ta nên sử dụng các công nghệ giám sát mới, nhưng sẽ trao quyền sử dụng nó cho người dân. Tôi hoàn toàn ủng hộ việc theo dõi nhiệt độ cơ thể và huyết áp mỗi người dân, nhưng dữ liệu đó không dùng vào việc phục vụ một chính phủ toàn năng. Thay vào đó, dữ liệu đó sẽ cho phép tôi đưa ra các lựa chọn cá nhân sáng suốt hơn, cũng như tự chịu trách nhiệm trước chính phủ đối với các quyết định của mình.

{keywords}
Lungomare di Forte dei Marmi, ở Versilia

Nếu có thể tự theo dõi sức khỏe bản thân 24 giờ mỗi ngày, tôi sẽ không chỉ biết rõ liệu tôi có gây nguy hiểm cho ai khác hay không, mà còn giúp hình thành các thói quen có lợi cho sức khỏe của mình. Nếu tôi có thể tiếp cận và phân tích các thống kê đáng tin cậy về sự lây lan của Covid-19, tôi có thể kiểm chứng các thông tin chính phủ công bố và liệu chính sách mà chính phủ đang áp dụng có phòng chống dịch hiệu quả hay không. Khi nói đến giám sát, người ta thường chỉ nghĩ tới công nghệ giúp chính phủ giám sát người dân mà không nhớ rằng công nghệ cũng có thể giúp mỗi cá nhân giám sát chính phủ. Do đó, dịch Covid-19 là một thử nghiệm lớn về quyền công dân. Trong những ngày sắp tới, mỗi người trong chúng ta nên chọn tin tưởng vào dữ liệu khoa học và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe hơn các thuyết âm mưu vô căn cứ và phát ngôn của các chính trị gia nhiều tham vọng. Nếu không lựa chọn đúng, chúng ta có thể thấy mình đang ký giấy cho đi những quyền tự do quý giá nhất, nhưng vẫn nghĩ rằng đó là cách duy nhất để bảo vệ sức khỏe của mình.

Chúng ta cần một kế hoạch toàn cầu

Vấn đề quan trọng thứ hai mà chúng ta phải đối mặt, đó là lựa chọn giữa sự cô lập mang tính dân tộc chủ nghĩa và sự đoàn kết toàn cầu. Cả đại dịch và hậu quả khủng hoảng kinh tế đều là những vấn đề toàn cầu. Chúng chỉ có thể được giải quyết hiệu quả bằng hợp tác toàn cầu.

Điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất giúp đánh bại Covid-19, đó là chúng ta cần chia sẻ thông tin trên phạm vi toàn cầu. Đó là lợi thế lớn của con người so với virus. Một con virus Covid-19 ở Trung Quốc và một con virus Covid-19 ở Mỹ không thể trao đổi với nhau các mẹo về cách lây nhiễm cho con người. Nhưng Trung Quốc có thể chia sẻ cho Mỹ nhiều bài học quý giá về Covid-19 và cách đối phó với nó. Những phát hiện của một bác sĩ người Ý tại Milan vào sáng sớm cũng có thể là thông tin cứu được thêm mạng sống ở Tehran vào buổi tối cùng ngày. Khi chính phủ Anh do dự giữa một số chính sách chống dịch, họ có thể nhận được lời khuyên từ Hàn Quốc, nơi đã đối mặt xử lý rất hiệu quả phương án chống dịch trong bối cảnh tương tự vào 1 tháng trước. Nhưng để việc chia sẻ này thành hiện thực, chúng ta cần một tinh thần hợp tác và tin tưởng toàn cầu.

Các quốc gia nên sẵn sàng chia sẻ thông tin một cách cởi mở và khiêm tốn lắng nghe lời khuyên, cũng như tin tưởng vào dữ liệu và những phân tích họ được chia sẻ. Chúng ta cũng cần một nỗ lực toàn cầu để sản xuất và phân phối thiết bị y tế, nhất là bộ kit thử nhanh và máy thở. Thay vì mọi quốc gia phải chạy đua tự sản xuất và tích trữ mọi thiết bị có thể mua được, một nỗ lực hợp tác toàn cầu sẽ giúp đẩy nhanh việc sản xuất và phân phối các thiết bị để chống dịch hiệu quả hơn. Cũng giống việc quốc hữu hóa các ngành công nghiệp quan trọng trong chiến tranh, cuộc chiến giữa con người và Covid-19 khiến chúng ta phải “nhân tính hóa” những dây chuyền sản xuất mang tính sống còn. Một quốc gia giàu có và ít bệnh nhân nhiễm virus nên sẵn lòng chi viện các thiết bị y tế thiết yếu cho những nước nghèo hơn đang bị dịch bệnh hoành hành với niềm tin rằng khi đến lượt mình cần giúp đỡ, các quốc gia khác cũng sẽ chung tay hỗ trợ.

Một chiến dịch hợp tác tương tự cũng có thể áp dụng với lực lượng y tế. Các nước đang ít bị ảnh hưởng có thể gửi nhân viên y tế đến những vùng dịch trong khu vực, vừa để giúp cứu người kịp thời, vừa để thu được những kinh nghiệm phòng chống dịch quý giá. Nếu sau đó tâm dịch chuyển hướng tới, sự giúp đỡ cũng sẽ quay theo chiều ngược lại.

Sự hợp tác toàn cầu cũng quan trọng trên mặt trận kinh tế. Xét bản chất của kinh tế toàn cầu và chuỗi cung ứng, nếu mỗi chính phủ tự ý hành động mà không đếm xỉa gì đến những quốc gia khác, hậu quả sẽ là khủng hoảng kinh tế toàn cầu và suy thoái sâu. Vì vậy, chúng ta cần một kế hoạch hành động toàn cầu và cần xúc tiến nhanh.

{keywords}
Duomo ở Florence, Italia.

Ngoài ra chúng ta cũng cần đạt được thỏa thuận toàn cầu về việc di chuyển giữa các quốc gia. Đi lại quốc tế bị ngừng trệ trong nhiều tháng sẽ đẩy chúng ta vào tình cảnh vô cùng khó khăn và cản trở cuộc chiến chống Covid-19. Các quốc gia cần hợp tác để cho phép một số ít những người quan trọng tiếp tục di chuyển qua biên giới như các nhà khoa học, bác sĩ, nhà báo, chính trị gia, và thương nhân. Các quốc gia có thể ký một thỏa thuận toàn cầu về việc sàng lọc ngay tại quê hương của các du khách. Nếu những hành khách được sàng lọc cẩn thận trước khi được phép lên máy bay, các quốc gia sẽ sẵn lòng cho họ nhập cảnh.

Đáng tiếc, hiện các quốc gia gần như chưa thực hiện bất cứ biện pháp hợp tác nào như vậy. Sự tê liệt tập thể đang bóp nghẹt cả thế giới. Dường như không có một “ngọn cờ đầu” nào trong dàn lãnh đạo thế giới. Đáng nhẽ chúng ta phải chứng kiến một cuộc họp khẩn cấp giữa các nhà lãnh đạo quốc tế từ nhiều tuần trước để đưa ra một kế hoạch hành động chung. Cho đến tận tuần này, các nhà lãnh đạo khối G7 mới thu xếp một cuộc họp trực tuyến, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu.

{keywords}
Bãi biển Torre San Giovanni, ở Lecce.

Trong những cuộc khủng hoảng toàn cầu trước đây, ví dụ như khủng hoảng tài chính 2008 hay đại dịch Ebola 2014, Mỹ luôn nắm vai trò dẫn dắt. Nhưng chính quyền Mỹ hiện nay đã từ bỏ vai trò lãnh đạo. Washington nói rõ lập trường rằng nước Mỹ hiện nay quan tâm đến sự phồn vinh của họ hơn là tương lai nhân loại.

Chính quyền Mỹ thậm chí đã bỏ rơi cả các đồng minh thân cận nhất. Khi cấm tất cả các chuyến bay từ EU, Mỹ còn chẳng buồn thông báo trước, chứ đừng nói đến việc hỏi ý kiến của EU về biện pháp mạnh tay này. Tuần trước, người Đức cũng rất tức giận trước thông tin cáo buộc Mỹ đề xuất trả 1 tỷ USD cho một công ty dược của Đức để mua độc quyền sáng chế vaccine Covid-19 (dù sau đó Nhà Trắng đã lên tiếng phủ nhận cáo buộc này và khẳng định đó là tin giả). Kể cả khi chính quyền Mỹ thay đổi cách tiếp cận và đưa ra một kế hoạch hành động toàn cầu, sẽ hiếm quốc gia nào còn dám mạnh dạn đi theo một “ngọn cờ đầu” như vậy.

Nếu không có quốc gia nào thế chỗ trống mà Mỹ để lại, thì không những việc chống đại dịch trở nên khó khăn hơn, mà còn làm quan hệ quốc tế xấu đi trong những năm tới. Tuy nhiên trong nguy có cơ. Chúng ta hy vọng đại dịch này sẽ giúp con người nhận ra sự nguy hiểm của sự chia rẽ toàn cầu.

Nhân loại cần phải đưa ra quyết định. Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc đua xuống đáy vực của sự chia rẽ, hay sẽ chuyển hướng sang con đường của đoàn kết toàn cầu? Nếu chọn chia rẽ, chúng ta sẽ không chỉ kéo dài cuộc khủng hoảng bệnh dịch này, mà thậm chí còn dẫn đến những thảm họa khốc liệt hơn trong tương lai. Nếu chúng ta chọn đoàn kết, đó sẽ không chỉ là chiến thắng trước đại dịch Covid-19, mà còn là chiến thắng trước mọi đại dịch và khủng hoảng có thể dồn dập tấn công nhân loại trong thế kỷ 21.

Yuval Noah Harari 

Trần Bích Hạnh (tóm lược)

Mẫu iPhone 13 trong mơ, màn hình tràn cạnh bên đẹp khó cưỡng

Mẫu iPhone 13 trong mơ, màn hình tràn cạnh bên đẹp khó cưỡng

Đây là một trong những mẫu iPhone 13 tuyệt đẹp, nhưng chắc chắn nó không phải một trong số những iPhone mới sắp ra mắt vào tháng 9 tới.

">

Yuval Noah Harari: Thế giới sẽ ra sao sau đại dịch Covid

{keywords}Dịch vụ công trực tuyến tăng trưởng trong 1 tháng bằng 20 năm do dịch Covid-19.

Dịch vụ công trực tuyến phải được cung cấp đến mọi người dân, mọi lúc, mọi nơi, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí, làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước được minh bạch, hiệu quả, góp phần phòng chống tham nhũng, cải cách hành chính toàn diện. 

“Đặc biệt, trước tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay, việc đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 càng trở nên quan trọng và cấp bách”, vị đại diện Cục Tin học hóa – Bộ TT&TT nhấn mạnh.

Thực tế, trong nhiều năm Việt Nam triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến để giải quyết các thủ tục hành chính đã được các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh, với số lượng dịch vụ công trực tuyến được các cơ quan nhà nước cung cấp cho người dân, doanh nghiệp liên tục gia tăng. Tuy nhiên, một trong những hạn chế lớn trong phát triển Chính phủ điện tử thời gian qua là tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến có phát sinh hồ sơ trực tuyến còn thấp, hiệu quả đạt được chưa cao. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm ngoái, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến có phát sinh hồ sơ chỉ khoảng 12%.

Trong đánh giá ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với hoạt động của lĩnh vực ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước quý I năm nay, thông tin từ Bộ TT&TT cho biết các hoạt động về phát triển Chính phủ điện tử của các bộ, ngành gần như không chịu tác động nhiều từ dịch Covid-19, thậm chí còn có xu hướng được đẩy nhanh hơn do phát sinh mạnh nhu cầu trao đổi thông tin, gửi nhận văn bản trên Trục liên thông văn bản quốc gia, họp trực tuyến giữa các cấp để ứng phó với bệnh dịch. 

“Diễn biến của bệnh dịch Covid-19 khiến người lao động của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức có tâm lý e ngại, hạn chế tụ tập nơi đông người. Do đó, việc khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến là biện pháp hiệu quả giúp phòng dịch, qua đó thúc đẩy việc triển khai, sử dụng dịch vụ công trực tuyến được hiệu quả”, đại diện Cục Tin học hóa - Bộ TT&TT cho hay.

Đáng chú ý, tại buổi ra mắt 2 ứng dụng (app) hỗ trợ phòng chống dịch Covid-19 vào ngày 9/3 vừa qua, lãnh đạo Bộ TT&TT đã cho biết, cùng với sự gia tăng người sử dụng các ứng dụng hỗ trợ làm việc, đào tạo từ xa, trong hơn 1 tháng phòng dịch Covid-19, tỷ lệ sử dụng các dịch vụ công trực tuyến đã tăng gấp đôi, từ 12% lên 24%. “Chúng ta đã làm Chính phủ điện tử cũng 20 năm mới giải được 12% là các dịch vụ công trực tuyến được sử dụng. Nhưng hơn 1 tháng vừa qua, tỷ lệ này đã tăng lên 24%”, lãnh đạo Bộ TT&TT cho hay.

Thông tin từ Cục Tin học hóa cũng cho biết, trong thời gian qua, lượng người truy cập vào các Cổng thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công trực tuyến của các Bộ ngành đều tăng cao hơn.

Cũng theo cơ quan này, thực hiện vai trò điều phối phát triển Chính phủ điện tử nói chung, thúc đẩy phát triển dịch vụ công trực tuyến nói riêng, Bộ TT&TT cũng đã có nhiều hành động thiết thực nhằm tuyên truyền, thúc đẩy người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến nhằm tránh tụ tập nơi đông người trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện nay. 

Bộ TT&TT đã kịp thời có văn bản đôn đốc các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.

Thời gian tới, Bộ TT&TT sẽ sớm triển khai hệ thống giám sát về Chính phủ điện tử để thu thập, đo lường mức độ sử dụng dịch vụ công trực tuyến đối với từng địa phương, từng Bộ, ngành. “Có được những số liệu cụ thể, chúng ta mới biết được nơi nào làm tốt, nơi nào chưa tốt, mức độ hiệu quả ra sao”, đại diện Cục Tin học hóa – Bộ TT&TT nhấn mạnh.

Trước đó, trong trao đổi với ICTnews, nhấn mạnh giai đoạn phòng dịch Covid-19 là cơ hội thúc đẩy tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến, chuyên gia Nguyễn Thế Trung chia sẻ: “Từ trước đến nay, chúng ta chỉ nhìn thấy rằng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 giúp giảm thiểu những hành vi nhũng nhiễu, đảm bảo minh bạch hơn trong quá trình phục vụ người dân, doanh nghiệp. Đến nay, trong bối cảnh phải ứng phó với dịch Covid-19, các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao có thêm một sức mạnh nữa, đó là không cần tiếp xúc trực tiếp mà vẫn có thể làm được các thủ tục hành chính và nhờ đó giúp giảm nguy cơ lây truyền dịch bệnh”.

Vân Anh

 

">

Dịch vụ công trực tuyến tăng trưởng 1 tháng bằng 20 năm

Nhận định, soi kèo U20 Sassuolo vs U20 Cesena, 20h00 ngày 27/1: Chủ nhà ‘ghi điểm’

Đại dịch Covid-19 không chỉ tạo ra khủng hoảng lớn về y tế, mà còn tác động mạnh mẽ đến sự vận hành của các đô thị lớn. Có lẽ thời điểm này là cơ hội để xem xét lại hình thức phát triển đô thị và nghĩ về một mô hình đô thị hậu Covid-19 có khả năng chống chịu tốt hơn với khủng hoảng dịch bệnh?

Phần 1: Đại dịch Covid-19 đã tạo ra thách thức cho mô hình phát triển đô thị hiện nay như thế nào?

Những ‘khuyết tật’ của đô thị hiện tại

Jane Jacobs – nhà kinh tế, đô thị học người Mỹ, cho rằng các thành phố chính là động lực của sự giàu có, là huyết mạch của nền kinh tế toàn cầu. Khả năng cạnh tranh của các đô thị quyết định sự giàu có và nghèo đói của các quốc gia, khu vực và thế giới. 55% dân số toàn cầu - hiện đang sống ở nơi được coi là khu vực thành thị. Đến năm 2030, hai phần ba dân số thế giới sẽ cư trú ở khu vực thành thị và sẽ có 41 siêu đô thị - được định nghĩa là có từ 10 triệu dân trở lên.

Đô thị không chỉ tạo ra sức mạnh kinh tế, cơ hội cho các cá nhân và cộng đồng để tiếp cận với việc làm, chăm sóc sức khỏe, mà còn là nơi thể hiện nền văn minh với lối sống gắn liền với sự vận hành của trung tâm thương mại, cao ốc văn phòng, hệ thống giao thông .v.v. Trong đó, cuộc sống đô thị xoay quanh 3 nơi chốn là nhà ở, nơi làm việc và các địa điểm giao tiếp xã hội (coffee, quán bar, câu lạc bộ v.v...). Duy trì các hoạt động và sự liên kết giữa các chức năng và nơi chốn này chính là duy trì một nền văn minh đô thị.

{keywords}
Đại dịch Covid-19 đã tạo ra thách thức cho mô hình phát triển đô thị hiện nay như thế nào? (Ảnh minh họa)

Các đô thị lớn và mật độ dân số cao được xem là nơi có hiệu quả nhất. Mức độ tập trung cao hơn của những người có kỹ năng, tỷ lệ đổi mới cao hơn và thu nhập cao hơn, là một yếu tố quan trọng trong cả sự phát triển, hạnh phúc và sự giàu có của các thành phố và quốc gia. Sự tập trung của người dân dày đặc hơn cũng dẫn đến việc sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, giảm tác động đến môi trường. Từ hội nghị quốc tế đầu tiên về biến đổi khí hậu tại Geneva năm 1979 đã thúc đẩy các chính sách khuyến khích phát triển theo mô hình đô thị nén và tập trung, được xem như lời giải cho vấn đề phát triển bền vững.

Thật trớ trêu, các siêu đô thị, các đầu tầu kinh tế toàn cầu này lại bộc lộ rủi ro cao nhất, dễ bị tổn thương nhất và hầu như đã bị tê liệt khi các trận đại dịch càn quét qua. Hongkong – trung tâm kinh tế tài chính châu Á, và là “mô hình đô thị bền vững cho châu Á” với cách phát triển nén đã trở thành tâm điểm của dịch cúm SARS 2003; và nay thì thành phố New York (Mỹ) đang là trung tâm của dịch Covid-19; Các đô thị toàn cầu khác như Milan, London, Madrid, Paris, Vũ Hán … là những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Phong tỏa, cách ly, dãn cách xã hội không chỉ làm cho các hoạt động đô thị gần như hoàn toàn tê liệt, nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế, mà nó còn làm phân rã mối liên kết quan trọng giữa các chức năng và nơi chốn vốn tạo ra nền văn mình đô thị. Đại dịch cũng dường như thúc đẩy khủng hoảng về kinh tế, gây ra hậu quả tiêu cực đối với cuộc sống, phúc lợi, sức khỏe về thể trạng và tinh thần, và hệ quả là làm lung lay niềm tin vào lối sống và mô hình phát triển đô thị hiện nay.

Phải chăng quá trình đô thị hóa và sự hình thành các đô thị lớn toàn cầu sẽ dẫn đến các rủi ro dịch bệnh? phải chăng mô hình đô thị hiện nay là không bền vững nếu xét tới khả năng chống chịu với dịch bệnh?

Đô thị hóa tạo môi trường cho các bệnh truyền nhiễm?

Đô thị hóa được đặc trưng bởi sự thay đổi kinh tế xã hội và sự phân mảnh sinh thái, có thể có tác động sâu sắc đến dịch tễ học của bệnh truyền nhiễm. Đô thị hóa cũng thúc đẩy sự phát sinh bệnh trong dân cư đô thị bằng cách cung cấp các điều kiện lý tưởng cho việc khuếch đại và truyền bệnh. Các đô thị cực lớn có sự đa dạng về văn hóa, kinh tế xã hội và chủng tộc, cũng như sự không đồng nhất về môi trường. Những thách thức khác cũng liên quan đến môi trường xây dựng đô thị bao gồm sự tập trung đông đúc và mật độ cao, khan hiếm không gian mở, vệ sinh kém, ô nhiễm không khí. Với quá trình đô thị hóa ngày một tăng, thì tổng số các đợt dịch bệnh truyền nhiễm và sự đa dạng của mầm bệnh cũng đã tăng lên trong vài thập kỷ qua.

Các đô thị có không gian phát triển khác nhau thì có mức độ lây nhiễm khác nhau?

Khi đại dịch quét qua toàn cầu cùng với mức độ ảnh hưởng khác nhau, thì cũng là lúc cần xem xét về mô hình hay cách thức phát triển đô thị nào dễ bị tổn thương, thành công và thất bại ở khả năng ngăn chặn và đối phó với coronavirus?

{keywords}
Thế giới hậu Covid-19

Không thể phủ nhận sự can thiệp và phương án đối phó với dịch cúm Covid-19 của các quốc gia khác nhau đã quyết định rõ nét đến mức độ lây nhiễm của dịch bệnh, tuy nhiên, mức độ bùng phát Covid-19 khác nhau ở các đô thị cũng cho thấy quy mô và mô hình phát triển dường như cũng quyết định đến mức độ lây nhiễm. Báo cáo của Tổ chức y tế thế giới WHO chỉ ra rằng, đặc điểm của đô thị, đặc biệt các là siêu đô thị toàn cầu, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cho một đại dịch, có thể phát triển thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu: mật độ dân cư, mức độ sử dụng hệ thống giao thông công cộng, tỷ lệ các tòa nhà và trung tâm thương mại tập trung đông người, cường độ tiếp xúc và giao tiếp, mức độ kết nối nội vùng và quốc tế, mức độ thu hút của các dân cư từ các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau.

Mật độ dân cư cao rủi ro càng lớn

Diễn biến lây nhiễm ở các đô thị cho thấy, dân số càng đông và mật độ cao, thì mức độ lây nhiễm Covid-19 lại càng lớn. Bùng phát của SARS ở Hồng Kong năm 2003 có nguyên nhân từ hình thái đô thị mật độ cao với các hình thức nhà ở chung cư, và việc người dân di chuyển bằng các phương tiện giao thông công cộng, Hồng Kông có 17.311 người trên mỗi dặm vuông. New York là tâm dịch Covid-19 của nước Mỹ, và cũng là thành phố có mật độ dân số cao hơn hơn nhiều so với bất kỳ thành phố lớn nào khác ở Hoa Kỳ. Thống đốc New York Andrew Cuomo đã cho rằng mật độ dân số cao là kẻ thù lớn nhất của New York trong việc chống lại sự lây lan của Coronavirus.

Trong khi đó, thành phố lớn thứ hai của của Mỹ, Los Angeles, đã chứng minh rằng, các hình thức đô thị phân tán theo định hướng xe hơi cá nhân và nhà ở đơn lẻ đã chống chịu tốt hơn với cuộc khủng hoảng Covid-19, với mức độ lây nhiễm ít hơn rất nhiều.

Các thành phố của Việt Nam đều có mật độ dân số đều thấp, ngoại trừ một số thành phố lớn như TP.HCM và Hà Nội, tuy nhiên, ngay cả các nơi có mật độ cao này thì mức độ sử dụng giao thông công cộng và nhà chung cư, khối tích lớn và chứa đựng nhiều người không phải là quá lớn, nếu so với các thành phố khác như Hongkong, New York hay Singapore.

Thách thức đối với việc sử dụng hệ thống giao thông công cộng

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Bệnh truyền nhiễm BMC “Có phải phương tiện công cộng là một yếu tố nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp?” cho thấy những người sử dụng phương tiện giao thông công cộng trong thời gian dịch cúm có khả năng mắc bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp cao gấp sáu lần đối với những người không sử dụng hệ thống giao thông công cộng.

Khi cơ quan y tế bảo yêu cầu ở nhà và dãn cách xã hội, thì tỷ lệ di sử dụng phương tiện công cộng sụt giảm 50-90% so với mức trước khủng hoảng tại các thành phố lớn ở Hoa Kỳ, Châu Âu. Sự sụt giảm khối lượng vận chuyển đáng kể dẫn tới sự sụp đổ của hoạt động đô thị, khủng hoảng xã hội và kinh tế. Việc giảm thiểu lượng người sử dụng cũng sẽ làm cho vấn đề tài chính tồi tệ hơn cho hệ thống giao thông này.

Đại dịch xảy ra cho thấy mức độ phụ thuộc quá lớn của chúng ta vào giao thông và hoạt động di chuyển, và việc này tạo ra rủi ro rất cao một khi có đại dịch. Thất bại của hệ thống giao thông sẽ là một thảm họa đối với tỷ lệ lớn các hộ gia đình có thu nhập thấp phụ thuộc vào xe buýt và xe lửa để đi làm - không chỉ ở thành thị, mà cả ở nông thôn. Nếu các thành phố cắt giảm mạnh năng lực giao thông công cộng trong thời gian dài, nó có thể làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng này.

Trung tâm thương mại, nhà cao tầng, chung cư

Công trình cao tầng, trung tâm thương mại không chỉ là biểu tượng là biểu trưng cho sức mạnh kinh tế - tài chính, cho xã hội tiêu dùng trong chủ nghĩa tư bản đương đại, mà còn bảo đảm cho sự vận hành của một đô thị thời kỳ toàn cầu hóa. Tuy nhiên, những công trình này… luôn bị nghi ngờ về sự an toàn đối với nguy cơ dịch bệnh.

Đại dịch SARS 2003 mà tâm dịch là ở Hongkong, thì nơi tập trung cao nhất và phát tán nhanh nhất dịch bệnh là các chung cư cao tầng. Vừa qua Vũ Hán, Milan, New York là những thành phố chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19, thì đều có chung đặc điểm – đó là các cao ốc văn phòng và chung cư cao tầng. Điều này không có nghĩa các công trình cao tầng là nơi phát sinh dịch bệnh, nhưng lại chính là môi trường lý tưởng để truyền nhiễm.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) báo cáo về đại dịch SARS cho rằng các khiếm khuyết trong hệ thống ống nước thải tại tòa nhà Amoy Gardens là nguyên nhân chính của lây nhiễm. Với Covid-19, có bốn lý do tiềm ẩn rủi ro, mật độ cao, cuộc sống cao tầng có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm: hệ thống ống nước, hệ thống điều hòa không khí, tăng tiếp xúc với bề mặt cảm ứng cao và sự tiếp xúc xã hội gần gũi thường xuyên giữa con người trong tòa nhà.

Siêu kết nối và kết nối toàn cầu

Nghiên cứu của Tổ chức y tế thế giới WHO đã đưa ra mối quan hệ mật thiết giữa toàn cầu hóa và các bệnh truyền nhiễm dưới góc độ phát tán bệnh, lây lan và tỷ lệ và tốc độ truyền nhiễm. Thương mại và du lịch quốc tế cũng có thể góp phần vào sự xuất hiện của đại dịch toàn cầu. Với tốc độ của du lịch và ngoại thương hiện đại, với mức độ kết nối chặt chẽ và rộng khắp giữa các đô thị, thì các bệnh truyền nhiễm rất dễ lây lan có thể là mối đe dọa tiềm tàng trong một môi trường hoàn toàn khác so với dịch bệnh ban đầu.

Vấn đề xã hội, chủng tộc trong môi trường đô thị

Các thành phố toàn cầu với đặc trưng là đa sắc tộc – với người từ nhiều nơi trên thế giới sống và làm việc, với ngôn ngữ, văn hóa và phong tục khác nhau. Lao động nhập cư được chào đón và là nguồn nhân lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo nên sức mạnh cho các đô thị toàn cầu. Tuy nhiên, vấn đề dường như hoàn toàn đảo ngược một khi đại dịch xảy ra, đặc biệt vào thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, và hệ quả là sự kỳ thị, ngờ vực và thù hận dâng cao giữa các cộng đồng.

Nếu như Cái chết đen (Black Death) ở châu Âu từ năm 1348 đến 1351, khiến người Do Thái bị kỳ thị và tấn công bạo lực khi họ bị đổ lỗi cho sự bùng nổ của dịch truyền nhiễm này. Thì nay, Covid-19, bắt đầu từ Vũ Hán, đã dẫn đến sự gia tăng kỳ thị người Trung quốc, và kéo theo đó định kiến, bài ngoại và phân biệt chủng tộc đối với người gốc Á tại các thành phố lớn trên thế giới. Tổ chức Di cư Quốc tế cảnh báo sự phân biệt đối xử ngày càng tăng đối với người di cư sẽ cản trở nỗ lực khắc phục đại dịch. 

Kịch bản phát triển đô thị cho tương lai?

Đại dịch Covid-19 cho thấy, các đô thị hiện đại có lẽ đã không được thiết kế và không được chuẩn bị để đương đầu với đại dịch, khi mà lối sống đô thị bị đảo lộn này đã biến các thành phố trở thành “một mớ hỗn hợp vô tổ chức và rời rạc”. Ngoài Covid-19, thế kỷ 21 cũng đã chứng kiến các dịch bệnh Sars, Mers, Ebola, cúm gia cầm, cúm lợn, v.v. và sẽ còn tiếp tục phải chứng kiến những đại dịch mới xuất hiện trong tương lai, như dự báo của các nhà khoa học. Nếu chúng ta thực sự bước vào kỷ nguyên đại dịch, thì mức độ rủi ro của mô hình đô thị này là rất lớn. Phải chăng Mô hình đô thị, nền văn minh đô thị hiện tại sẽ phải thay đổi theo một chiều hướng khác?

Đại dịch đang phát triển thành một cuộc khủng hoảng đô thị, đã đặt ra sự hoài nghi và tính đáng tin cậy của các giá trị vốn làm nên sức mạnh, sức hấp dẫn của các đô thị hiện nay, đồng thời buộc chúng ta phải xem xét tới sự hiện diện của các bệnh truyền nhiễm như một điều kiện trong quy hoạch đô thị, và suy nghĩ về một xã hội và đô thị có khả năng thích ứng tốt hơn với điều kiện mới này, và hướng tới mô hình thành phố mới trong bối cảnh “thế giới hậu Covid-19”.

TS, KTS Lê Quốc Hùng, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch xây dựng miền Nam 

Virus corona lây lan nhanh, dân chung cư cuống cuồng lo phòng dịch

Virus corona lây lan nhanh, dân chung cư cuống cuồng lo phòng dịch

 - Trước những diễn biến phức tạp về dịch viêm đường hô hấp cấp do virus corona mới gây ra, cư dân  chung cư đang nâng cao cảnh giác và sử dụng các biện pháp phòng bệnh nhất là ở những chung cư có người nước ngoài sinh sống.    

">

Cú hích quy hoạch giải thoát điểm nghẽn đô thị sau đại dịch Covid

友情链接