![]() |
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng trả lời tại họp báo |
“Sáng nay, Thủ tướng vừa chỉ đạo Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ ngành sửa Nghị định 101 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và các quy định khác có liên quan đến các chứng chỉ để thăng hạng viên chức, trong đó có giáo viên. Vậy việc sửa đổi Nghị định này sẽ được thực hiện ra sao, theo hướng nào? Một số ý kiến đề nghị bỏ chứng chỉ này, việc sửa Nghị định 101 có quy định bỏ chứng chỉ này không?”, báo VietNamNet hỏi.
Trả lời, Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cho biết, việc này liên quan Nghị định 18/2010 và sau này là Nghị định 101/2017.
Năm 2019, Quốc hội sửa Luật Cán bộ Công chức, Luật Viên chức có nhiều điểm mới. Trên tinh thần của luật mới, Chính phủ ban hành hai nghị định về vị trí việc làm đối với công chức và viên chức quy định rõ bảng mô tả công việc, xác định khung năng lực…
Nghị định cũng phân cấp thẩm quyền cho Bộ quản lý chuyên ngành quy định cụ thể vị trí việc làm và mô tả, xác định khung năng lực.
“Đối với giáo viên thì Bộ GD-ĐT chịu trách nhiệm việc này và đương nhiên phải thống nhất với Bộ Nội vụ”, ông Thăng nói và lưu ý các vụ khi xây dựng các văn bản kể cả nghị định, thông tư phải có nội dung quy định chuyển tiếp. Bởi, tất cả những phản ánh hiện nay có vấn đề là do thiếu quy định chuyển tiếp.
Ông Thăng cũng diễn giải thêm, một chuyên viên cao cấp, chẳng may thiếu chứng chỉ chuyên viên chính thì bắt họ học lại chuyên viên chính thì không thực tiễn.
Vì vậy Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng lưu ý, phải có quy định chuyển tiếp cho những người phát sinh từ thời điểm ban hành quy định chứ không phải “hồi tố”. Các văn bản hiện nay thiếu rất nhiều quy định chuyển tiếp.
“Đề nghị anh em của Bộ khi làm văn bản quy phạm pháp luật hết sức lưu ý điều khoản chuyển tiếp, áp dụng từ nay trở đi với cái gì, ra làm sao, với những người cũ thì hướng xử lý như thế nào… Như vậy mới thực tiễn. Chứ quy định như thế này mà không có quy định chuyển tiếp có nghĩa là hồi tố”, ông Thăng một lần nữa nhấn mạnh.
Rà soát tổng thể các chứng chỉ
Thứ trưởng Nội vụ nhắc lại tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng là rà soát tổng thể các chứng chỉ để xác định chứng chỉ nào dùng để bổ nhiệm, nâng ngạch, chứng chỉ nào mang tính chất bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn với nghĩa cập nhật kiến thức; cái nào bắt buộc, cái nào khuyến khích.
“Vì vậy tôi đề nghị Vụ Công chức, Viên chức khi sửa thông tư Công chức hành chính và lưu trữ cũng phải rà soát lại. Công chức chuyên ngành của các bộ như thuế, hải quan, kho bạc, ngân hàng, thanh tra cũng tổng rà soát toàn bộ”, ông Thăng nói.
Theo ông Thăng, các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp lịch sử của nó là từ năm 1993 khi làm tiền lương theo chức nghiệp. Trong quá trình khi có luật phân cấp dần cho các bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Vì vậy, Thứ trưởng đề nghị Vụ Đào tạo, Vụ Công chức Viên chức khi xây dựng các văn bản cố gắng rà soát lại trên tinh thần phân cấp toàn diện.
“Nghị quyết 99/2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đã phân cấp rất cụ thể, rất mạnh. Đã phân cấp rồi thì trách nhiệm của bộ quản lý ngành phải chịu trách nhiệm. Như tiêu chuẩn của giáo viên thì Bộ GD-ĐT phải chủ trì chịu trách nhiệm, Bộ Nội vụ chỉ tham gia để đảm bảo thống nhất chung”, Thứ trưởng Nội vụ khẳng định.
Ông Thăng cũng đề nghị sửa Nghị định 101 đảm bảo tính liên thông thống nhất với vị trí việc làm, các yêu cầu nội dung của Nghị định 106/2020 đối với viên chức và Nghị định 62/2020 đối với công chức, trên cơ sở Luật Cán bộ Công chức, Viên chức năm 2019 để đảm bảo tính liên thông, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
“Nếu theo tư duy cũ của chế độ chức nghiệp năm 1993 thì không theo thực tiễn, hiện nay ta đang hỗn hợp giữa chức nghiệp và vị trí việc làm chứ không phải hoàn toàn theo vị trí việc làm”, Thứ trưởng Nguyễn Duy Thăng nói thêm.
Thu Hằng - Trần Thường
Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ GD-ĐT đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến việc xếp hạng giáo viên cho phù hợp để giải quyết dứt điểm các vướng mắc, bất cập trong thời gian vừa qua về vấn đề này.
" alt=""/>Thứ trưởng Nội vụ chỉ lý do giáo viên khổ với chứng chỉ nâng hạng giáo viênTuy nhiên, trong phần 'Đặc điểm môn học' viết: "Môn Tiếng Hàn - Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông, giảng dạy từ lớp 3 đến lớp 12".
![]() |
Quyết định của Bộ GD-ĐT từ ngày 9/2 |
![]() |
Phần Đặc điểm môn học nêu rõ đây là môn học 'bắt buộc'. Liệu có sự nhầm lẫn? |
Liệu có sự nhầm lẫn khi xác định đây là môn học 'bắt buộc'? Xem giải thích của đại diện Bộ GD-ĐT TẠI ĐÂY.
Sáng nay (4/3), trao đổi với VietNamNet, ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT) cho hay, đây là quyết định về việc thí điểm Tiếng Hàn trở thành một trong những Ngoại ngữ 1. Còn chương trình Tiếng Hàn – Ngoại ngữ 2 thì đã được Bộ GD-ĐT ban hành trước đây.
Với từ “bắt buộc”, ông Thành cho hay không có nghĩa Tiếng Hàn sẽ trở thành môn học bắt buộc, mà từ này dùng để bổ ngữ giải nghĩa cho cụm “Ngoại ngữ 1”.
Tức Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông, học sinh có thể chọn một trong các thứ tiếng được xác định là Ngoại ngữ 1.
“Như vậy, học sinh có thể chọn bất cứ môn học nào trong các môn thuộc nhóm Ngoại ngữ 1 mà không cứng nhắc bắt buộc phải học môn Tiếng Hàn”, ông Thành nhấn mạnh.
Trong khi đó, một chuyên gia giáo dục chia sẻ, có 3 khái niệm liên quan đến thuật ngữ môn học. Đó là: compulsory subjects (môn học bắt buộc), selective subjects (môn bắt buộc có lựa chọn), elective/optional subjects (môn tự chọn, học cũng được, không học cũng chẳng sao).
Môn 'bắt buộc có lựa chọn' là có nhiều sự lựa chọn nhưng bắt buộc phải chọn 1 để học.
Vì vậy, nếu văn bản ghi rõ là 'môn học bắt buộc có lựa chọn' thì sẽ chuẩn xác hơn.
Mục tiêu: Đạt bậc 3 sau khi hết THPT
Bên cạnh việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Hàn, theo Bộ GD-ĐT, môn học này còn trang bị kiến thức và kỹ năng học tập ngoại ngữ nói chung; giúp học sinh có thể vận dụng ngoại ngữ một cách hiệu quả trong giao tiếp, học tập, đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.
Nội dung cơ bản của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn bao gồm các chủ điểm, chủ đề và kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được lựa chọn phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh và được tích hợp vào quá trình rèn luyện, phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cơ bản.
Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị năng lực giao tiếp cụ thể, trong các chủ điểm và chủ đề phù hợp với nhu cầu và khả năng của học sinh nhằm giúp các em đạt được các yêu cầu quy định trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Cụ thể, học sinh kết thúc lớp 6 đạt Bậc 1, kết thúc cấp THCS (lớp 9) đạt Bậc 2 và kết thúc cấp THPT (lớp 12) đạt Bậc 3.
Tổng thời lượng chương trình là 1.155 tiết (mỗi tiết 45 phút) bao gồm cả các tiết ôn tập và kiểm tra đánh giá.
![]() |
Ảnh minh họa: Thanh Hùng |
Về nội dung, ở cấp tiểu học (từ lớp 3 đến lớp 5), việc dạy học Tiếng Hàn giúp cho học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cơ bản thông qua 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; trong đó chú trọng nhiều hơn đến 2 kỹ năng nghe và nói.
Ở cấp THCS, việc dạy học Tiếng Hàn tiếp tục giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, đồng thời phát triển năng lực tư duy và nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, xã hội Hàn Quốc và các quốc gia trên thế giới cũng như hiểu biết sâu hơn về văn hóa, xã hội dân tộc mình.
Ở cấp THPT, giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp dựa trên nền tảng chương trình đã được học ở các cấp dưới, trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng để học tập suốt đời, phát triển năng lực làm việc trong tương lai.
Mục tiêu chung của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn là kết thúc chương trình phổ thông, học sinh có khả năng giao tiếp đạt trình độ Bậc 3 của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Giúp học sinh có được hiểu biết khái quát về đất nước, con người và văn hóa Hàn Quốc cũng như các quốc gia và các nền văn hóa khác có liên quan. Qua đó hình thành ở học sinh những thái độ và tình cảm tốt đẹp đối với ngôn ngữ, văn hóa và con người của các quốc gia khác trên thế giới.
Bên cạnh đó, góp phần hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất và năng lực cần thiết mang tính hướng nghiệp như: ý thức và trách nhiệm lao động, định hướng và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích, khả năng thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thanh Hùng
Bộ GD-ĐT vừa lý giải về việc thí điểm môn Tiếng Hàn và Tiếng Đức là Ngoại ngữ 1 trong chương trình phổ thông.
" alt=""/>Tiếng Hàn trở thành môn học bắt buộc ở Việt Nam từ lớp 3 đến 12?