Vào tháng 9/2020, các nhà thiên văn học báo cáo đã xem xét các hình ảnh không gian sâu từ Kính viễn vọng không gian Hubble cho thấy bằng chứng về một nhân tố còn thiếu trong hiểu biết của chúng ta về vật chất tối - lực vô hình mà các nhà vật lý lý thuyết nhận định là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vũ trụ khả kiến (visible universe).

Vật chất tối, bởi vì nó không tương tác với ánh sáng, chỉ có thể được phát hiện bằng lực kéo của nó lên vật chất nhìn thấy. Mặc dù các nhà khoa học chắc chắn rằng nó tồn tại, nhưng các lý thuyết về cách nó hoạt động trong việc vận hành cơ bản của vũ trụ vẫn phải được sửa đổi liên tục.

Các quan sát của Hubble về một số cụm thiên hà - những cấu trúc tồn tại khi vật chất tối liên kết hàng trăm thiên hà thành một khối hấp dẫn - cho thấy lực hấp dẫn của mạng lưới vật chất tối  mạnh hơn lý thuyết gấp 10 lần.

Phát hiện này được xác định bằng phương pháp cổ xưa nhất của thiên văn học , quan sát đơn giản. Lực hấp dẫn cực lớn của vật chất tối có thể bẻ cong ánh sáng để tạo thành một quang không gian/thời gian đủ mạnh để phóng đại một số vật thể ở xa nhất trong vũ trụ, một quá trình được gọi là thấu kính hấp dẫn.

Các nhà thiên văn học đã rất ngạc nhiên bởi việc thấu kính vật chất tối đã tiết lộ bao nhiêu chi tiết của vũ trụ xa xôi.

Tất nhiên, đây là cách khoa học vận hành, một thử nghiệm liên tục về lý thuyết bằng cách sử dụng dữ liệu mới nhất và tốt nhất. Trong vật lý thiên văn, nó đã dẫn dắt sự hiểu biết của con người về các rìa của vũ trụ, qua hàng tỷ năm ánh sáng và một không gian rộng lớn chứa vô số ngôi sao.

Những khám phá tuyệt vời về vũ trụ dường như đến gần như hàng ngày, khi các nhà thiên văn học nghiên cứu những vật thể khổng lồ cách Trái Đất hàng trăm triệu năm ánh sáng, một trong số đó là lỗ đen khổng lồ - chứng minh cho tiên đoán bác học của Einstein cách đây hơn 100 năm là có thật.

Nhưng trước khi xem xét vũ trụ khổng lồ của chúng ta, các nhà thiên văn học thời xưa đã nghiên cứu một vũ trụ rất nhỏ. Qua nhiều thế kỷ quan sát, thu thập dữ liệu rộng rãi và sự tò mò ham hiểu biết về trật tự vũ trụ, thì các định luật cơ bản chi phối chuyển động của các hành tinh và các ngôi sao mới dần được tiết lộ.

Trước khi chúng ta có thể tiếp cận được tri thức phức tạp đó, sự hiểu biết của con người về vũ trụ rất nhỏ. Hay nói cách khác, vũ trụ trong mắt con người thời xa xưa rất nhỏ bé.

Thời đó họ quan niệm, Trái Đất là trung tâm của vạn vật, được Mặt Trời quay quanh chiếu sáng ở độ cao chỉ 160 km.

Vũ trụ học phương Tây thời cổ đại, được trình bày rõ nhất trong các tác phẩm của nhà bác học Hy Lạp Aristotle (384 – 322 TCN), cho rằng Trái Đất bất động, được quay quanh bởi Mặt Trời, Mặt Trăng và 5 hành tinh có thể nhìn thấy, gồm: Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ.

Mặt Trời, bởi vì nó thực hiện quá trình di chuyển trên không hoàn toàn trong một ngày, được cho là gần nhất (đó là lý do tại sao có câu chuyện thần thoại Hy Lạp về Icarus - người tạo ra Mê Cung - phải trả giá đắt khi bay quá gần Mặt Trời bằng đôi cánh sáp của mình).

Mặt Trăng, cũng ở gần đó, được hiểu là có ánh sáng từ Mặt trời chiếu sáng. Còn 5 hành tinh còn lại quay với tốc độ không đổi quanh Trái Đất theo những vòng tròn chính xác - một trật tự hoàn hảo, vĩnh cửu.

Tuy nhiên, phương pháp quan sát đơn giản của vũ trụ học thời này cũng nhận thấy một số vấn đề nhất định. Các nhà thiên văn học, những người thường xuyên quan sát bầu trời đêm để tìm mối liên hệ liên quan đến các sự kiện trên Trái Đất, nhận thấy rằng cả sao Thủy và sao Kim đều không bao giờ xuất hiện lần lượt quá 28 và 48 độ so với Mặt Trời.

Khó hiểu hơn là có những khoảng thời gian, ngoại trừ Mặt Trời và Mặt Trăng, mỗi hành tinh dừng quá trình tiến về phía trước và lùi lại một thời gian trước khi chuyển động tiếp về phía trước - Đây là chính là hiện tượng mà thiên văn học hiện đại gọi là Chuyển động ngược dòng biểu kiến.

Những sự kiện kỳ ​​lạ này và những sự kiện kỳ ​​lạ khác - ví dụ như sự xuất hiện của sao chổi - đòi hỏi sự tìm hiểu của các nhà thiên văn học thời cổ đại.

Để làm được điều đó, các nhà quan sát vũ trụ Hy Lạp đã đề xuất một hệ thống các khối cầu bên trong các khối cầu. Trái Đất được đặt ở trung tâm, nằm giữa các quả cầu của Mặt Trời và Mặt Trăng, tiếp theo là từng hành tinh và cuối cùng là vỏ địa cầu.

Tuy nhiên, hệ thống "hoàn hảo" này đòi hỏi phải sửa chữa liên tục để làm cho nó khớp với các sự kiện thiên thể quan sát được.

Vào khoảng năm 150 CN, nhà thiên văn học người Hy Lạp Claudius Ptolemy đã kết hợp cả những quan sát lâu đời về các ngôi sao (sử dụng dữ liệu gần 800 năm do người Babylon thu thập) với toán học Ả Rập để hiệu chỉnh lại các quả cầu của Aristotle, thêm chuyển động lớn hơn và định vị lại tâm điểm.

Được trình bày dưới dạng văn bản, hệ thống của Ptolemy dự đoán tốt hơn chuyển động quan sát của các hành tinh và các ngôi sao.

Phép toán của Ptolemy đã bóp và kéo mô hình của Aristotle vừa đủ để làm cho nó hoạt động mà không phá hủy nó hoàn toàn. Hệ thống Ptolemy tồn tại trong 1.500 năm, nhưng các vấn đề nan giải vẫn còn. Mặc dù Ptolemy nhận ra rằng Trái Đất là một điểm nhỏ trong vũ trụ rộng lớn, nhưng ông vẫn giữ lớp ngoài của các ngôi sao, ở khoảng cách mà ông ước tính, cần quay với tốc độ tương đương 16 triệu km/giờ so với Trái Đất đứng yên. Nếu trật tự của các ngôi sao ở xa hơn nữa, vận tốc cần thiết để duy trì sự xuất hiện hàng đêm của nó trên Trái Đất là không thể.

Hệ thống của Ptolemy đã trở thành cơ sở cho sự hiểu biết của Giáo hội Cơ đốc mới về trật tự của vũ trụ. Nhưng có những giả thuyết khác.

Ngay từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, nhà thiên văn học người Hy Lạp, Aristarchus ở Samos (310 TCN-230 TCN), đã đề xuất một trật tự hành tinh lấy Mặt Trời làm trung tâm, nói thêm rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất và các ngôi sao trên thực tế là những mặt trời rất xa.

Thuyết nhật tâm do Aristarchus lập luận được biết đến sớm nhất trong lịch sử.

Sau các quan sát, Aristarchus biết Mặt Trời lớn hơn Trái Đất hoặc Mặt Trăng rất nhiều và nhà thiên văn người Hy Lạp đã đưa ra phỏng đoán Mặt Trời phải có vị trí trung tâm trong Thái Dương Hệ. Đây chính là thuyết nhật tâm được biết đến sớm nhất trong lịch sử.

Mặc dù văn bản phác thảo thiết kế của Aristarchus đã bị thất lạc, nhưng nó đã được Archimedes, người có công trình tồn tại và được các học giả Hồi giáo nhắc lại trong các văn bản khoa học thế kỷ 10.

Ý tưởng của Aristarchus cuối cùng đã thu hút sự chú ý của nhà thiên văn học/toán học người Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473-1543), người sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, đã công bố các tính toán vào năm 1543 phát triển tác phẩm "Về sự chuyển động quay của các thiên thể" của mình, trong đó nêu ra thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại: Đề xuất rằng Trái Đất và các hành tinh quay quanh Mặt Trời.

Sự phát triển thuyết nhật tâm của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử, đánh dấu bước chuyển sang thiên văn học hiện đại. Năm ông cho ra đời thuyết nhật tâm cũng là năm ông mất.

Trong nhiều thập kỷ, các hệ thống Copernic và Ptolemy có những người ủng hộ của riêng họ.

Nhà thiên văn học người Đan Mạch ở thế kỷ 16 Tycho Brahe đã bắt đầu nghiên cứu Ptolemy trước khi nhận ra logic Copernic. Ông đã cố gắng phân tách sự khác biệt bằng cách đề xuất rằng, mặc dù các hành tinh chắc chắn quay quanh Mặt Trời, nhưng Mặt Trời vẫn quay quanh Trái Đất. Nó vẫn duy trì quỹ đạo của các hành tinh trong những vòng tròn hoàn hảo.

Hệ thống Copernic. Ảnh: Teachastronomy.com

Vào buổi bình minh của thế kỷ 17, những phát minh và khám phá mới đã làm thay đổi thế giới. Điều hướng xuyên đại dương đã thiết lập khá tốt kích thước của địa cầu như một thứ lớn hơn nhiều so với ước tính. Tính toán này cuối cùng đã đưa các vì sao vượt xa giới hạn của Ptolemy.

Nhưng, 170 năm sau khi Copernic qua đời, một giáo viên toán người Đức và nhà chiêm tinh Johannes Kepler đã tìm ra chân lý.

Chính trong thời đại dữ liệu tốt hơn và những quan sát phi thường, Johannes Kepler cuối cùng đã trình bày một mô hình hoạt động của Hệ Mặt Trời phù hợp với tất cả các dữ kiện đã được lắp ráp.

Thiên tài toán học Johannes Kepler được Tycho Brahe mời đến đài thiên văn ở Prague (thủ đô của Séc) để làm việc liên quan đến nghiên cứu quỹ đạo của sao Hỏa. Tycho Brahe đột ngột qua đời vào năm 1601, và Kepler kế vị ông làm nhà thiên văn chính cho Hoàng đế La Mã Thần thánh.

Ông tiếp tục sử dụng dữ liệu sao Hỏa để xây dựng ba định luật chuyển động của hành tinh: 1) quỹ đạo của một hành tinh là một hình elip, với Mặt Trời ở một tiêu điểm; 2) rằng một hành tinh tăng tốc khi nó tiến đến điểm gần nhất của nó với Mặt Trời, và chậm lại khi nó di chuyển ra xa; và 3) quỹ đạo của tất cả các hành tinh, bất kể bao xa trong không gian, đều có cùng tỷ lệ thời gian và khoảng cách.

Được công bố vào năm 1619, định luật Kepler cuối cùng đã làm rõ các nguyên tắc cơ bản của chuyển động hành tinh. "Tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó với sự thích thú đáng kinh ngạc và đẹp mê hồn," ông viết về nhận định định luật thứ ba của mình. Các tính toán đằng sau định luật thứ ba là cơ sở của phương trình Isaac Newton cho định luật vạn vật hấp dẫn năm 1686.

Với Sir Newton, một trong những nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử đã có công đưa chúng ta đến được cánh cổng mở ra kỷ nguyên hiện đại trong cuộc cách mạng khoa học. Vật lý của Newton đã thịnh hành trong hơn 200 năm, một mô hình ổn định cho cuộc sống trên Trái Đất của chúng ta, trước khi Albert Einstein đưa ra đề xuất vào năm 1905 rằng cả trọng lực và thời gian đều không đổi.

Dưới sự thức tỉnh của Einstein (qua thuyết tương đối), những quan sát mở rộng của chúng ta về vũ trụ đã tạo ra mô hình về một vũ trụ bao la không thể tưởng tượng được liên kết với nhau bởi khối lượng các hạt vô hình nặng đến mức bẻ cong ánh sáng và thu gọn thời gian.

Bản đồ vũ trụ khả kiến. Ảnh: Internet

Vẻ đẹp của nó, mặc dù trừu tượng hơn vô cùng so với các quy luật hành tinh mà Kepler đã chiêm nghiệm, nhưng không kém phần hấp dẫn và đáng kinh ngạc để chiêm ngưỡng thời hiện tại và trong tương lai.

Einstein là một trong những nhà khoa học đưa ra cái nhìn mới mẻ về "lỗ đen" (khái niệm này mãi về sau mới xuất hiện khi nhà thiên văn học Mỹ John Wheeler (1911-2008), một trong những cộng tác viên cuối cùng của Albert Einstein, đưa ra năm 1967).

Nhờ Einstein, nhà vật lý toán học người Anh Roger Penrose trong bài báo năm 1965 của ông công nhận rằng "sự hình thành lỗ đen là một dự đoán đúng đắn mà Albert Einstein đưa ra trong thuyết tương đối rộng cách đây hơn 100 năm". Chính vậy, Roger Penrose là một trong 3 nhà thiên văn học vinh dự nhận giải Nobel Vật lý 2020 .

Nhiều thập kỷ tiếp theo, dựa trên công trình nghiên cứu và công nhận lý thuyết về lỗ đen, hàng trăm các nhà khoa học quốc tế đã có được bức ảnh chứng minh sự tồn tại của "quái vật vũ trụ".

Ngày 10/4/2019 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hành trình giải mã 'quái vật' khổng lồ đó: Lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có được bức ảnh đầu tiên chứng minh sự tồn tại của lỗ đen.

Ngành thiên văn học của thế giới bước sang trang mới, mở ra hy vọng mới cho các nhà khoa học trong hành trình tiếp tục giải mã những bí ẩn của lỗ đen - quái vật thực sự trong vũ trụ.

Bài viết sử dụng nguồn: Magellantv

Theo GenK

" />

'Bí mật tiên tri' vĩ đại của Einstein: Mất hơn 100 năm hậu thế mới phát hiện ra điều kinh ngạc

Thế giới 2025-02-01 22:55:28 16639

Vào tháng 9/2020,ímậttiêntrivĩđạicủaEinsteinMấthơnnămhậuthếmớipháthiệnrađiềukinhngạlịch âm.hôm nay các nhà thiên văn học báo cáo đã xem xét các hình ảnh không gian sâu từ Kính viễn vọng không gian Hubble cho thấy bằng chứng về một nhân tố còn thiếu trong hiểu biết của chúng ta về vật chất tối - lực vô hình mà các nhà vật lý lý thuyết nhận định là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vũ trụ khả kiến (visible universe).

Vật chất tối, bởi vì nó không tương tác với ánh sáng, chỉ có thể được phát hiện bằng lực kéo của nó lên vật chất nhìn thấy. Mặc dù các nhà khoa học chắc chắn rằng nó tồn tại, nhưng các lý thuyết về cách nó hoạt động trong việc vận hành cơ bản của vũ trụ vẫn phải được sửa đổi liên tục.

Các quan sát của Hubble về một số cụm thiên hà - những cấu trúc tồn tại khi vật chất tối liên kết hàng trăm thiên hà thành một khối hấp dẫn - cho thấy lực hấp dẫn của mạng lưới vật chất tối  mạnh hơn lý thuyết gấp 10 lần.

Phát hiện này được xác định bằng phương pháp cổ xưa nhất của thiên văn học , quan sát đơn giản. Lực hấp dẫn cực lớn của vật chất tối có thể bẻ cong ánh sáng để tạo thành một quang không gian/thời gian đủ mạnh để phóng đại một số vật thể ở xa nhất trong vũ trụ, một quá trình được gọi là thấu kính hấp dẫn.

Các nhà thiên văn học đã rất ngạc nhiên bởi việc thấu kính vật chất tối đã tiết lộ bao nhiêu chi tiết của vũ trụ xa xôi.

Tất nhiên, đây là cách khoa học vận hành, một thử nghiệm liên tục về lý thuyết bằng cách sử dụng dữ liệu mới nhất và tốt nhất. Trong vật lý thiên văn, nó đã dẫn dắt sự hiểu biết của con người về các rìa của vũ trụ, qua hàng tỷ năm ánh sáng và một không gian rộng lớn chứa vô số ngôi sao.

Những khám phá tuyệt vời về vũ trụ dường như đến gần như hàng ngày, khi các nhà thiên văn học nghiên cứu những vật thể khổng lồ cách Trái Đất hàng trăm triệu năm ánh sáng, một trong số đó là lỗ đen khổng lồ - chứng minh cho tiên đoán bác học của Einstein cách đây hơn 100 năm là có thật.

Nhưng trước khi xem xét vũ trụ khổng lồ của chúng ta, các nhà thiên văn học thời xưa đã nghiên cứu một vũ trụ rất nhỏ. Qua nhiều thế kỷ quan sát, thu thập dữ liệu rộng rãi và sự tò mò ham hiểu biết về trật tự vũ trụ, thì các định luật cơ bản chi phối chuyển động của các hành tinh và các ngôi sao mới dần được tiết lộ.

Trước khi chúng ta có thể tiếp cận được tri thức phức tạp đó, sự hiểu biết của con người về vũ trụ rất nhỏ. Hay nói cách khác, vũ trụ trong mắt con người thời xa xưa rất nhỏ bé.

Thời đó họ quan niệm, Trái Đất là trung tâm của vạn vật, được Mặt Trời quay quanh chiếu sáng ở độ cao chỉ 160 km.

Vũ trụ học phương Tây thời cổ đại, được trình bày rõ nhất trong các tác phẩm của nhà bác học Hy Lạp Aristotle (384 – 322 TCN), cho rằng Trái Đất bất động, được quay quanh bởi Mặt Trời, Mặt Trăng và 5 hành tinh có thể nhìn thấy, gồm: Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ.

Mặt Trời, bởi vì nó thực hiện quá trình di chuyển trên không hoàn toàn trong một ngày, được cho là gần nhất (đó là lý do tại sao có câu chuyện thần thoại Hy Lạp về Icarus - người tạo ra Mê Cung - phải trả giá đắt khi bay quá gần Mặt Trời bằng đôi cánh sáp của mình).

Mặt Trăng, cũng ở gần đó, được hiểu là có ánh sáng từ Mặt trời chiếu sáng. Còn 5 hành tinh còn lại quay với tốc độ không đổi quanh Trái Đất theo những vòng tròn chính xác - một trật tự hoàn hảo, vĩnh cửu.

Tuy nhiên, phương pháp quan sát đơn giản của vũ trụ học thời này cũng nhận thấy một số vấn đề nhất định. Các nhà thiên văn học, những người thường xuyên quan sát bầu trời đêm để tìm mối liên hệ liên quan đến các sự kiện trên Trái Đất, nhận thấy rằng cả sao Thủy và sao Kim đều không bao giờ xuất hiện lần lượt quá 28 và 48 độ so với Mặt Trời.

Khó hiểu hơn là có những khoảng thời gian, ngoại trừ Mặt Trời và Mặt Trăng, mỗi hành tinh dừng quá trình tiến về phía trước và lùi lại một thời gian trước khi chuyển động tiếp về phía trước - Đây là chính là hiện tượng mà thiên văn học hiện đại gọi là Chuyển động ngược dòng biểu kiến.

Những sự kiện kỳ ​​lạ này và những sự kiện kỳ ​​lạ khác - ví dụ như sự xuất hiện của sao chổi - đòi hỏi sự tìm hiểu của các nhà thiên văn học thời cổ đại.

Để làm được điều đó, các nhà quan sát vũ trụ Hy Lạp đã đề xuất một hệ thống các khối cầu bên trong các khối cầu. Trái Đất được đặt ở trung tâm, nằm giữa các quả cầu của Mặt Trời và Mặt Trăng, tiếp theo là từng hành tinh và cuối cùng là vỏ địa cầu.

Tuy nhiên, hệ thống "hoàn hảo" này đòi hỏi phải sửa chữa liên tục để làm cho nó khớp với các sự kiện thiên thể quan sát được.

Vào khoảng năm 150 CN, nhà thiên văn học người Hy Lạp Claudius Ptolemy đã kết hợp cả những quan sát lâu đời về các ngôi sao (sử dụng dữ liệu gần 800 năm do người Babylon thu thập) với toán học Ả Rập để hiệu chỉnh lại các quả cầu của Aristotle, thêm chuyển động lớn hơn và định vị lại tâm điểm.

Được trình bày dưới dạng văn bản, hệ thống của Ptolemy dự đoán tốt hơn chuyển động quan sát của các hành tinh và các ngôi sao.

Phép toán của Ptolemy đã bóp và kéo mô hình của Aristotle vừa đủ để làm cho nó hoạt động mà không phá hủy nó hoàn toàn. Hệ thống Ptolemy tồn tại trong 1.500 năm, nhưng các vấn đề nan giải vẫn còn. Mặc dù Ptolemy nhận ra rằng Trái Đất là một điểm nhỏ trong vũ trụ rộng lớn, nhưng ông vẫn giữ lớp ngoài của các ngôi sao, ở khoảng cách mà ông ước tính, cần quay với tốc độ tương đương 16 triệu km/giờ so với Trái Đất đứng yên. Nếu trật tự của các ngôi sao ở xa hơn nữa, vận tốc cần thiết để duy trì sự xuất hiện hàng đêm của nó trên Trái Đất là không thể.

Hệ thống của Ptolemy đã trở thành cơ sở cho sự hiểu biết của Giáo hội Cơ đốc mới về trật tự của vũ trụ. Nhưng có những giả thuyết khác.

Ngay từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, nhà thiên văn học người Hy Lạp, Aristarchus ở Samos (310 TCN-230 TCN), đã đề xuất một trật tự hành tinh lấy Mặt Trời làm trung tâm, nói thêm rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất và các ngôi sao trên thực tế là những mặt trời rất xa.

Thuyết nhật tâm do Aristarchus lập luận được biết đến sớm nhất trong lịch sử.

Sau các quan sát, Aristarchus biết Mặt Trời lớn hơn Trái Đất hoặc Mặt Trăng rất nhiều và nhà thiên văn người Hy Lạp đã đưa ra phỏng đoán Mặt Trời phải có vị trí trung tâm trong Thái Dương Hệ. Đây chính là thuyết nhật tâm được biết đến sớm nhất trong lịch sử.

Mặc dù văn bản phác thảo thiết kế của Aristarchus đã bị thất lạc, nhưng nó đã được Archimedes, người có công trình tồn tại và được các học giả Hồi giáo nhắc lại trong các văn bản khoa học thế kỷ 10.

Ý tưởng của Aristarchus cuối cùng đã thu hút sự chú ý của nhà thiên văn học/toán học người Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473-1543), người sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, đã công bố các tính toán vào năm 1543 phát triển tác phẩm "Về sự chuyển động quay của các thiên thể" của mình, trong đó nêu ra thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại: Đề xuất rằng Trái Đất và các hành tinh quay quanh Mặt Trời.

Sự phát triển thuyết nhật tâm của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử, đánh dấu bước chuyển sang thiên văn học hiện đại. Năm ông cho ra đời thuyết nhật tâm cũng là năm ông mất.

Trong nhiều thập kỷ, các hệ thống Copernic và Ptolemy có những người ủng hộ của riêng họ.

Nhà thiên văn học người Đan Mạch ở thế kỷ 16 Tycho Brahe đã bắt đầu nghiên cứu Ptolemy trước khi nhận ra logic Copernic. Ông đã cố gắng phân tách sự khác biệt bằng cách đề xuất rằng, mặc dù các hành tinh chắc chắn quay quanh Mặt Trời, nhưng Mặt Trời vẫn quay quanh Trái Đất. Nó vẫn duy trì quỹ đạo của các hành tinh trong những vòng tròn hoàn hảo.

Hệ thống Copernic. Ảnh: Teachastronomy.com

Vào buổi bình minh của thế kỷ 17, những phát minh và khám phá mới đã làm thay đổi thế giới. Điều hướng xuyên đại dương đã thiết lập khá tốt kích thước của địa cầu như một thứ lớn hơn nhiều so với ước tính. Tính toán này cuối cùng đã đưa các vì sao vượt xa giới hạn của Ptolemy.

Nhưng, 170 năm sau khi Copernic qua đời, một giáo viên toán người Đức và nhà chiêm tinh Johannes Kepler đã tìm ra chân lý.

Chính trong thời đại dữ liệu tốt hơn và những quan sát phi thường, Johannes Kepler cuối cùng đã trình bày một mô hình hoạt động của Hệ Mặt Trời phù hợp với tất cả các dữ kiện đã được lắp ráp.

Thiên tài toán học Johannes Kepler được Tycho Brahe mời đến đài thiên văn ở Prague (thủ đô của Séc) để làm việc liên quan đến nghiên cứu quỹ đạo của sao Hỏa. Tycho Brahe đột ngột qua đời vào năm 1601, và Kepler kế vị ông làm nhà thiên văn chính cho Hoàng đế La Mã Thần thánh.

Ông tiếp tục sử dụng dữ liệu sao Hỏa để xây dựng ba định luật chuyển động của hành tinh: 1) quỹ đạo của một hành tinh là một hình elip, với Mặt Trời ở một tiêu điểm; 2) rằng một hành tinh tăng tốc khi nó tiến đến điểm gần nhất của nó với Mặt Trời, và chậm lại khi nó di chuyển ra xa; và 3) quỹ đạo của tất cả các hành tinh, bất kể bao xa trong không gian, đều có cùng tỷ lệ thời gian và khoảng cách.

Được công bố vào năm 1619, định luật Kepler cuối cùng đã làm rõ các nguyên tắc cơ bản của chuyển động hành tinh. "Tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó với sự thích thú đáng kinh ngạc và đẹp mê hồn," ông viết về nhận định định luật thứ ba của mình. Các tính toán đằng sau định luật thứ ba là cơ sở của phương trình Isaac Newton cho định luật vạn vật hấp dẫn năm 1686.

Với Sir Newton, một trong những nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử đã có công đưa chúng ta đến được cánh cổng mở ra kỷ nguyên hiện đại trong cuộc cách mạng khoa học. Vật lý của Newton đã thịnh hành trong hơn 200 năm, một mô hình ổn định cho cuộc sống trên Trái Đất của chúng ta, trước khi Albert Einstein đưa ra đề xuất vào năm 1905 rằng cả trọng lực và thời gian đều không đổi.

Dưới sự thức tỉnh của Einstein (qua thuyết tương đối), những quan sát mở rộng của chúng ta về vũ trụ đã tạo ra mô hình về một vũ trụ bao la không thể tưởng tượng được liên kết với nhau bởi khối lượng các hạt vô hình nặng đến mức bẻ cong ánh sáng và thu gọn thời gian.

Bản đồ vũ trụ khả kiến. Ảnh: Internet

Vẻ đẹp của nó, mặc dù trừu tượng hơn vô cùng so với các quy luật hành tinh mà Kepler đã chiêm nghiệm, nhưng không kém phần hấp dẫn và đáng kinh ngạc để chiêm ngưỡng thời hiện tại và trong tương lai.

Einstein là một trong những nhà khoa học đưa ra cái nhìn mới mẻ về "lỗ đen" (khái niệm này mãi về sau mới xuất hiện khi nhà thiên văn học Mỹ John Wheeler (1911-2008), một trong những cộng tác viên cuối cùng của Albert Einstein, đưa ra năm 1967).

Nhờ Einstein, nhà vật lý toán học người Anh Roger Penrose trong bài báo năm 1965 của ông công nhận rằng "sự hình thành lỗ đen là một dự đoán đúng đắn mà Albert Einstein đưa ra trong thuyết tương đối rộng cách đây hơn 100 năm". Chính vậy, Roger Penrose là một trong 3 nhà thiên văn học vinh dự nhận giải Nobel Vật lý 2020 .

Nhiều thập kỷ tiếp theo, dựa trên công trình nghiên cứu và công nhận lý thuyết về lỗ đen, hàng trăm các nhà khoa học quốc tế đã có được bức ảnh chứng minh sự tồn tại của "quái vật vũ trụ".

Ngày 10/4/2019 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hành trình giải mã 'quái vật' khổng lồ đó: Lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có được bức ảnh đầu tiên chứng minh sự tồn tại của lỗ đen.

Ngành thiên văn học của thế giới bước sang trang mới, mở ra hy vọng mới cho các nhà khoa học trong hành trình tiếp tục giải mã những bí ẩn của lỗ đen - quái vật thực sự trong vũ trụ.

Bài viết sử dụng nguồn: Magellantv

Theo GenK

本文地址:http://member.tour-time.com/html/124e699362.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Siêu máy tính dự đoán Barca vs Valencia, 03h00 ngày 27/1

Thái Lan đã cho thấy chất lượng đội hình vượt trội hơn hẳn so với Indonesia ở chung kết AFF Cupnăm nay. Họ chỉ cần vài phút để xuyên thủng hàng thủ vốn đã từng khiến ĐT Việt Nam phải bất lực.

Gần như nắm chắc chiếc cúp vô địch trong tay nhưng có nhiều lý do để tin rằng, Thái Lan sẽ tiếp tục chơi canh bạc tất tay trong trận lượt về này. Đầu tiên, họ chẳng còn gì để phải dưỡng sức, tránh thẻ phạt khi đây là trận cuối cùng.

{keywords}
Thái Lan vs Indonesia

Trong lúc đó, đẳng cấp và trình độ của Indonesia vẫn còn kém xa so với Thái Lan. Đoàn quân của ông Shin Tae Yong có tinh thần chiến đấu cao nhưng bản lĩnh và kinh nghiệm trận mạc là điểm yếu khác. Indonesia cũng không có điểm tựa sân nhà khi đây là trận đấu được tổ chức ở sân trung lập.

Thông tin lực lượng:
Thái Lan mất thủ thành Chatchai vì chấn thương.
Indonesia có lực lượng mạnh nhất

VietNamNet tường thuật trực tiếp và cập nhật link xem trận chung kết lượt về Thái Lan vs Indonesia , bắt đầu từ lúc 19h cùng ngày.

Ghi bàn: 

Indonesia: Ricky Kambuaya (7'), Egy Maulana (80')

Thái Lan: Adisak (53'), Asnawi Mangkualam (56' phản lưới)

Đội hình thi đấu

Thái Lan: Siwarak Tedsungnoen, Narubadin Weerawatnodom, Kritsada Kaman, Pawee Tanthatemee, Theerathon Bumathan, Sarach Yooyen, Thanawat Suengchitthawon (Phitiwat 46'), Chanathip Songkrasin, Bordin Phala (Roller 71'), Supachok, Teerasil Dangda (Adisak 46').

Indonesia: Nadeo Argawinata, Asnawi Mangkualam, Pratama Arhan, Fachruddin Aryanto, Alfeandra Dewangga, Witan Sulaeman, Egy Maulana Vikri, Rachmat Irianto (Evan Dimas 74'), Ricky Kambuaya, Ramai Rumakiek (Irfan 59'), Dedik Setiawan (Hanis 59').

Q.C

Xem trực tiếp chung kết AFF Cup Indonesia vs Thái Lan ở đâu?

Xem trực tiếp chung kết AFF Cup Indonesia vs Thái Lan ở đâu?

VietNamNet cập nhật kênh sóng phát và link xem trực tiếp trận đấu giữa Indonesia vs Thái Lan, thuộc chung kết lượt đi AFF Cup 2020.

">

Link xem trực tiếp Thái Lan vs Indonesia

Đây là yêu cầu của Bộ trưởng Đào Ngọc Dung tại buổi làm việc với các đơn vị trực thuộc về tình hình và kế hoạch ứng phó với dịch Covid-19.

Ông Dung yêu cầu Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên toàn quốc tổ chức cho học sinh, sinh viên đi học trở lại bình thường từ ngày 2/3.

{keywords}
Hiện nay, gần như tất cả sinh viên, học sinh trên cả nước đang nghỉ học tới hết tháng 2. (Ảnh: Thanh Tùng)

Các cơ sở phải quan tâm, chú trọng công tác tuyên truyền, các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để học sinh, sinh viên yên tâm quay trở lại học.

Đồng thời, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải thực hiện nghiêm việc vệ sinh khử trùng, diệt khuẩn trường, lớp. Hướng dẫn kỹ năng phòng, chống dịch bệnh và thực hiện các biện pháp giám sát sức khỏe cho giáo viên, học sinh, sinh viên theo hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn về y tế.

Hiện nay, vì tình hình diễn biến Covid-19 phức tạp, gần như tất cả sinh viên, học sinh trên cả nước đang nghỉ học tới hết tháng 2. Trong hệ thống các trường nghề, có trường kéo dài thời gian nghỉ phòng dịch đến hết tháng 3.

Lê Huyền

Lãnh đạo TP.HCM giải thích lý do kiến nghị chậm đi học trở lại

Lãnh đạo TP.HCM giải thích lý do kiến nghị chậm đi học trở lại

 - Ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Thành ủy TP.HCM, cho hay Covid-19 là loại bệnh cần có cường độ người chăm sóc rất lớn. 

">

Học sinh, sinh viên hơn 500 trường nghề đi học lại ngày 2/3

Soi kèo phạt góc Alaves vs Celta Vigo, 3h00 ngày 28/1

Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam vừa có buổi làm việc với Chính phủ về kết quả thực hiện vận động Quỹ "Vì người nghèo", chương trình an sinh xã hội và công tác chuẩn bị tổ chức Chương trình truyền hình trực tiếp "Chung tay vì người nghèo" năm 2018.

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia và ông Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trì cuộc làm việc.

Theo báo cáo kết quả thực hiện Chương trình truyền hình trực tiếp "Chung tay vì người nghèo" năm 2017, chương trình đã có 104 doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân ủng hộ Quỹ "Vì người nghèo" và chương trình an sinh xã hội với số tiến gần 280 tỷ đồng.

Tính đến ngày 31/7/2018 có 85/104 đơn vị, tổ chức, cá nhân đã chuyển tiền ủng hộ người nghèo và từ nguồn nhắn tin qua cổng thông tin điện tử nhân đạo quốc gia 1400 với số tiền trên 41,4 tỷ đồng. Tổng số tiền các đơn vị, cá nhân đăng ký ủng hộ chương trình an sinh xã hội trên 227 tỷ đồng để khám chữa bệnh, xây dựng nhà ở cho người nghèo, xây dựng công trình thiết yếu, làm cầu đường, trường học… cho cộng đồng nghèo.

Cũng trong 6 tháng đầu năm 2018, Quỹ "Vì người nghèo" 4 cấp đã tiếp nhận được trên 529 tỷ đồng. Các cơ quan, doanh nghiệp ủng hộ chương trình an sinh xã hội trực tiếp ở các địa phương số tiền trên 1.647 tỷ đồng.

{keywords}
Ảnh minh họa

Từ nguồn Quỹ "Vì người nghèo", Trung ương đã hỗ trợ trên 13 tỷ đồng để thăm, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 và hỗ trợ xây dựng nhà đại đoàn kết, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ ốm đau nằm viện dài ngày, hỗ trợ học sinh đi học.

Bên cạnh đó, các địa phương đã hỗ trợ xây dựng và sửa chữa 17.962 căn nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo; hỗ trợ xây dựng 683 công trình dân sinh; giúp đỡ, hỗ trợ hơn 114.000 hộ nghèo có điều kiện sản xuất; hỗ trợ trên 2 triệu lượt hộ nghèo khám chữa bệnh và 100.695 cháu học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn cho biết, hiện tỷ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn cao, vì vậy cần tiếp tục triển khai chương trình thành hoạt động thường niên để góp phần nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân, qua đó tạo sự lan tỏa và huy động được nhiều nguồn lực hỗ trợ người nghèo vươn lên.

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị các bộ, ngành phối hợp với Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng, tổ chức thành công chương trình truyền hình trực tiếp "Chung tay vì người nghèo" vào ngày 17/10/2018, để đây là một sự kiện thường niên, có sức lan tỏa mạnh mẽ, huy động sự chung tay ủng hộ người nghèo của toàn xã hội.

Phó Thủ tướng lưu ý, bên cạnh việc đẩy mạnh truyền thông về tháng cao điểm vì người nghèo, cần tổ chức hội nghị biểu dương, tôn vinh các điển hình, cộng đồng thoát nghèo, tôn vinh những doanh nghiệp, cá nhân đóng góp hỗ trợ người nghèo; tổ chức trao giải báo chí về công tác giảm nghèo bền vững và phát động nhắn tin ủng hộ người nghèo qua Cổng thông tin nhân đạo quốc gia 1400.

Sau khi thống nhất với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban hành kế hoạch phối hợp tổ chức chương trình trực tiếp "Cả nước chung tay vì người nghèo" năm 2018.

Việc tổ chức chương trình nhằm vận động các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, doanh nhân, cơ quan, đơn vị, nhà hảo tâm, người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ người nghèo, thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững.

Nguồn lực huy động thông qua chương trình ưu tiên hỗ trợ cho hộ nghèo, cộng đồng nghèo vùng biên giới, các tỉnh bị thiệt hại do thiên tai, do bão lũ, rét đậm, rét hại, hạn hán trong năm 2017-2018.

M.M - Phương Cúc - Ngọc Cương

">

Hàng nghìn tỷ đồng ủng hộ Quỹ ‘Vì người nghèo’

{keywords}

Một bữa ăn trưa của học sinh Nhật Bản

Ở Úc, một năm học lại có 4 học kỳ với 4 kỳ nghỉ. Mỗi kỳ thường kéo dài từ 9-11 tuần. Những ngày nghỉ ở Úc cũng thường thay đổi theo từng bang và vùng lãnh thổ. Năm học mới tại đây thường bắt đầu từ cuối tháng 1 và kéo dài đến giữa tháng 12. Vì Úc ở Nam bán cầu nên mùa hè ngược với các nước ở Bắc bán cầu. 

Kỳ nghỉ hè của học sinh Úc là quãng thời gian dài nhất, kéo dài từ giữa tháng 12 đến cuối tháng 1 năm sau. Kỳ nghỉ thu kéo dài nửa tháng vào tháng 4; kỳ nghỉ đông cũng kéo dài nửa tháng vào khoảng tháng 7; kỳ nghỉ xuân kéo dài nửa tháng khoảng tháng 9-10.

Năm học ở Hàn Quốc thường bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 2 năm sau và được chia thành 2 học kỳ. Học kỳ I từ tháng 3 đến tháng 7 và học kỳ II từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau.

Kỳ nghỉ hè tại Hàn Quốc sẽ kéo dài khoảng 2 tháng là tháng 7 và tháng 8. Tiếp đó là kỳ nghỉ đông kéo dài đến tháng 2. Nguyên nhân vì từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, Hàn Quốc chìm trong giá lạnh, có tuyết rơi và nhiệt độ thường xuyên ở mức âm, dao động khoảng 1 độ đến âm 10 độ. 

Chính vì mùa đông lạnh giá, cộng với việc tuyết rơi dày, cản trở giao thông nên Hàn Quốc cho học sinh nghỉ tại nhà và khuyến cáo mọi người hạn chế ra ngoài để đảm bảo sức khỏe. 

Thường sau khi khai giảng vào đầu tháng 3, học sinh còn có một kỳ nghỉ ngắn khoảng 1 tuần trước khi bắt đầu năm học mới.

Nền giáo dục Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Trong đó, một năm học tại đây thường kéo dài từ đầu tháng 9 đến giữa tháng 7 năm sau. Học sinh sẽ có 2 kỳ nghỉ trong năm là kỳ nghỉ hè vào tháng 7-8 (học sinh thường dành kỳ nghỉ hè ở các lớp học hè và chuẩn bị cho các kỳ thi tuyển sinh) và kỳ nghỉ đông vào tháng 1-2.

Năm học của Pháp - một quốc gia ở Bắc bán cầu trải dài từ tháng 8 đến tháng 6 năm sau, được chia thành 4 học kỳ kéo dài 7 tuần. Pháp cũng có các kỳ nghỉ kéo dài khoảng 2 tuần ở giữa các kỳ học. Trong đó, kỳ nghỉ Giáng sinh và năm mới kéo dài 2 tuần; kỳ nghỉ đông kéo dài 2 tuần bắt đầu từ giữa tháng 2, kỳ nghỉ xuân kéo dài 2 tuần bắt đầu từ giữa tháng 4 và kỳ nghỉ hè 2-3 tháng bắt đầu từ tháng 6.

Năm học ở Singapore được chia làm 2 học kỳ, kỳ I từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 5 và kỳ 2 từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 11.

Trường Giang

Có thể nghỉ học hết tháng 3, tổ chức 4 kỳ nghỉ trong năm học?

Có thể nghỉ học hết tháng 3, tổ chức 4 kỳ nghỉ trong năm học?

- Cùng với các quyết định cho học sinh tiếp tục nghỉ học từ 1-2 tuần phòng dịch bệnh virus Covid-19, lãnh đạo Hà Nội và TP.HCM còn có thêm những đề xuất khác: Nghỉ học hết tháng 3, hoặc tổ chức 4 kỳ nghỉ trong một năm học.

">

Học sinh trên thế giới đều có từ 2

Người Thái và nợ chồng thêm nợ

Thái Lan mở đầu năm 2019 bằng thất bại ở Asian Cup - giải đấu mà họ ghi dấu ấn bằng việc thay tướng giữa dòng.

{keywords}
Thái Lan tiếp tục thua kém tuyển Việt Nam

Thất bại ở Asian Cup 2019 kéo dài giai đoạn thảm họa của đội tuyển Thái Lan, khi trước đó phải nhìn tuyển Việt Nam đăng quang AFF Cup 2018.

Ngay sau khi trở về từ UAE - nơi tổ chức Asian Cup 2019, Thái Lan xây dựng kế hoạch cho King's Cup 2019, với mục tiêu giành chiến thắng giải đấu giao hữu ra đời cách nay 51 năm.

Người Thái đặt nặng King's Cup 2019, thể hiện qua việc làm mọi cách có thể để mời hai đối thủ Việt Nam và Ấn Độ.

Trước khi King's Cup lần thứ 47 khởi tranh, Thái Lan luôn hô hào khẩu hiệu "đòi nợ" Ấn Độ - đội đã thắng họ 4-1 tại Asian Cup 2019, và thắng Việt Nam để thể hiện ngôi vị số 1 Đông Nam Á.

Ngoài ra, King's Cup 2019 còn để chào mừng Quốc vương Maha Vajiralongkorn, hay Rama X (đăng quang ngày 4/5/2019) - vị vua thứ 10 của vương triều Chakri, kế vị vua cha Rama IX.

Tham vọng đòi nợ của Thái Lan đã bị dội những gáo nước lạnh, trên sân nhà ở tỉnh Buriram.

Thái Lan mở màn King's Cup 2019 bằng thất bại trước Việt Nam, trong trận đấu thừa bạo lực. Ở trận tranh hạng Ba, "Voi chiến" nhận thêm thất bại với cùng tỷ số 0-1 trước Ấn Độ.

{keywords}
King's Cup 2019 với Thái Lan là thảm họa

Một giải đấu thảm họa thực sự, khi người Thái trắng tay, và thậm chí không thể ghi bàn danh dự trước khán giả nhà.

Thái Lan và nhà dột từ nóc

King's Cup 2019 của Thái Lan khép lại trong cảnh nợ chồng thêm nợ. "Voi chiến" thua bẽ bàng Ấn Độ, đồng thời tô điểm thêm cho vị trí số 1 Đông Nam Á của tuyển Việt Nam.

Những gì vừa diễn ra kéo dài giai đoạn khủng hoảng của bóng đá Thái Lan, trên mọi cấp độ đội tuyển.

Đầu năm 2018, ở Trung Quốc, bóng đá Việt Nam bắt đầu kỷ nguyên vàng với HLV Park Hang Seo, khi đội U23 vào chung kết giải châu lục. Ngược lại, U23 Thái Lan bị loại từ vòng bảng, ghi 1 bàn và thủng lưới 7 lần.

Cũng đội U23 Thái Lan, có sự bổ sung ngôi sao, tiếp tục thất bại khi tham dự Asian Cup 2018. Đây là giải đấu mà U23 Việt Nam làm rạng ranh Đông Nam Á.

Ở giải U22 Đông Nam Á 2018 trên đất Campuchia, các đối thủ đề cao cọ sát, trong khi Thái Lan nuôi tham vọng vô địch nhưng thua Indonesia trong trận chung kết.

Cũng trong năm 2018, đội U19 Thái Lan liên tiếp thất bại ở các giải U19 Đông Nam Á đến U19 châu Á.

Gần đây, U23 Thái Lan thể hiện hình ảnh tệ hại trong giai đoạn vòng loại U23 châu Á 2020 (nhưng vẫn có vé vào VCK, với tư cách chủ nhà). Đáng chú ý là thảm bại 0-4 trước U23 Việt Nam.

{keywords}
Bóng đá Thái Lan đang chìm trong tăm tối

Vấn đề của Thái Lan là toàn bộ hệ thống bóng đá nước này. Các rắc rối bắt đầu từ vai trò kém của LĐBĐ Thái Lan (FAT), mà cụ thể là Chủ tịch Somyot Poompanmoung.

Rất nhiều cuộc họp được FAT tổ chức để mổ xẻ các khía cạnh, nhưng ông Somyot Poompanmoung điều hành kém và quan liêu, nên không giải quyết được gì.

Chủ tịch Somyot xung đột với huyền thoại Kiatisuk Senamuang, từ đó lựa chọn các HLV trưởng không phù hợp, thiếu năng lực chuyên môn lẫn khả năng quản lý.

Chất lượng cầu thủ cao, nhưng bóng đá Thái Lan đang như một ngôi nhà dột từ nóc, để rồi dư luận nước này chỉ biết nhìn tuyển Việt Nam trong sự thèm thuồng.

Video highlights Thái Lan 0-1 Việt Nam:

Thiên Thanh

">

Thái Lan kém Việt Nam: Bóng đá Thái Lan, nhà dột từ nóc

友情链接