Mải miết mưu sinh quên lấy chồng
Bà Võ Thị Tư (79 tuổi) sống cùng em gái Võ Thị Nguyệt (72 tuổi) tại số 1 đường 16, ấp Hậu, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, TPHCM. Cả hai trú ngụ trong căn nhà chắp vá đơn sơ, vật dụng đơn giản được bài trí gọn gàng.
Cha mẹ bà Tư mất sớm để lại 5 người con nheo nhóc. Nhưng rồi, 2 trong số 5 người cũng lần lượt qua đời, chỉ còn chị em bà Tư và 1 anh trai.
Từ nhỏ, chị em bà Tư đã quen cảnh thiếu trước hụt sau. Để có miếng cơm manh áo, 2 người buộc phải tự lập, làm thuê làm mướn.
Bà Tư chia sẻ: “Ngày đó, nhà tôi nghèo và cực khổ lắm. Chúng tôi chỉ biết làm việc chẳng quản ngày đêm. Hết bắt cá, hái rau thì chuyển qua làm mướn cho người ta.
Ngoảnh lại một cái đã thấy mình gần 40 tuổi, hết dám tính chuyện chồng con. Em gái giống hệt tôi, lo làm, không nhìn ngang ngó dọc nên có anh nào để ý đâu”.
Chăm chú nghe chị gái chia sẻ, bà Nguyệt cười rồi tiếp lời: “Hồi đó, ai kêu gì làm đó, mong có tiền. Tôi không nghĩ nhiều đến chuyện lấy chồng, chỉ biết làm và làm.
Nếu biết về già hiu quạnh như vầy thì lúc đó, tôi ưng anh làm chung là giờ con đàn cháu đống rồi”.
Cùng cảnh không chồng, hai bà động viên, nương tựa nhau qua tháng năm. Đến tuổi gần đất xa trời, họ không còn nghĩ đến chuyện chồng con nữa.
Anh trai của hai bà có gia đình riêng, hoàn cảnh chẳng mấy dư dả. Các cháu cũng phải làm thuê đủ nghề nhưng không đủ ăn.
Cố gắng lắm, họ mới cất cho 2 bà một mái nhà vừa vặn che nắng, tránh mưa.
Mong bữa cơm có thịt cá
Không trông cậy vào người thân, 2 bà túc tắc mưu sinh. Trước đây, 2 bà làm vườn thuê cho bà con trong vùng. Công việc vất vả nhưng thu nhập ổn định, không phải lo cái ăn.
Khoảng 2 năm nay, bà Tư yếu dần, thường xuyên đau nhức, không thể cuốc đất, nhổ cỏ thuê… Vì vậy, 2 bà chuyển sang nhận mành trúc về nhà gia công.
Tuổi cao mắt kém, mỗi ngày, 2 bà xâu được 25 – 30 sợi dây trúc, mỗi sợi được trả công 300 – 400 đồng.
Làm được 100 sợi, bà Nguyệt chở qua xưởng để nhận 40 nghìn đồng tiền công. Số tiền kiếm được mỗi ngày dao động khoảng 10 nghìn đồng.
Hai bà tiếp xúc với nghề làm mành trúc từ ngày còn trẻ. Thế nên, khi bắt tay làm lại nghề cũ, cả hai cảm thấy không mấy vất vả. Tuy nhiên, thu nhập tính theo sản phẩm nên không được bao nhiêu.
Dù túng thiếu nhưng bà Tư vun vén khéo, không ra chợ mà chỉ ra đầu ngõ mua ít cá về kho mặn. Nhưng vì kiếm được đồng nào tiêu luôn đồng đó, nên 2 bà lo lúc bệnh tật chẳng biết xoay ở đâu.
Mỗi ngày, hai người đều làm từ sáng tinh mơ đến nhập nhoạng tối mới nghỉ tay ăn cơm. Họ cứ cố gắng thêm được vài sợi thì nhanh nhận tiền công, bữa cơm có chút thịt cá.
Hình ảnh 2 bà ngồi trước cửa nhà miệt mài xâu từng sợi trúc đã quá quen thuộc với bà con trong ấp Hậu.
Thương 2 bà, hàng xóm sang chơi và phụ xâu mành trúc. Nhờ vậy, 2 bà có người trò chuyện khuây khỏa và nhanh đủ số lượng để giao cho xưởng.
Biết cảnh 2 bà neo đơn, chính quyền địa phương và chủ xưởng mành trúc thỉnh thoảng biếu chút quà bánh, mắm muối, gạo ngon… Bà con lối xóm thương yêu, có gì ngon cũng mang sang cho 2 bà ăn cùng.
Bà Võ Ngọc Ánh, Bí thư Chi bộ ấp Hậu, xã Tân Thông Hội, cho biết: “Cả ấp này đều biết đến hoàn cảnh khó khăn, đơn chiếc của chị em bà Tư. Dù tuổi cao nhưng 2 bà vẫn mưu sinh bằng nghề xâu mành trúc.
Xưa vì gia đình khó khăn, 2 bà lo làm, cặm cụi từ sáng tới khuya. Suốt bao năm như thế, 2 bà quên luôn chuyện lập gia đình”.
Cả ấp không chỉ biết cuộc sống của 2 bà khó khăn mà còn quý mến, nể phục tình chị em của hai người.
Sống cùng nhau bao năm, xóm làng chưa từng nghe họ cãi vã to tiếng. Chị nhường em miếng ngon, em kính trọng, vâng lời chị gái.
Ở tuổi xưa nay hiếm, 2 bà chỉ lo chẳng may người kia mất trước thì người ở lại cô quạnh sớm chiều. Bởi vậy, họ trân trọng từng ngày còn được ăn chung bữa cơm, đêm ngủ có người bầu bạn.
Năm 1956, Tô Ngọc Thanh học Khoa Sáng tác của Trường Trung cấp âm nhạc Việt Nam khóa đầu tiên, tiền thân của Nhạc viện Hà Nội (giờ là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Trường nhạc ngày ấy chỉ dạy nhạc cổ điển phương Tây. Ông không thích những thứ đó mà chỉ ham tìm hiểu về dòng âm nhạc dân gian của Việt Nam.
Vì yêu thích, Tô Ngọc Thanh lặn lội khắp các vùng, từ Tây Bắc, Việt Bắc đến Tây Nguyên để sống cùng đồng bào và hiểu thứ âm nhạc mà họ đang sở hữu.
Ông quan niệm, làm nghiên cứu mà không nói được tiếng dân tộc, không sống với họ, không hiểu được họ rất khó thành công. Vì thế, Tô Ngọc Thanh học tiếng của đồng bào để giao tiếp với họ, tuyệt nhiên không nghiên cứu qua tài liệu, giấy tờ. Ông mất ít nhất 3 năm sống chung với người dân địa phương. Cuộc đời Tô Ngọc Thanh trải qua phần lớn thời gian sống với đồng bào dân tộc nhiều hơn ở nhà.
Những chuyến điền dã, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian, Giáo sư Tô Ngọc Thanh đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu xuất sắc, công bố rộng rãi ở trong nước và quốc tế.
Tiêu biểu như: Công trình Âm nhạc dân gian Thái Tây Bắc(1969); Tác phẩm Âm nhạc dân gian Mường(1971); Âm nhạc dân gian nhóm tộc người Nam Á ở Việt Nam(1979); Tìm hiểu âm nhạc cổ truyền- viết chung với nhạc sĩ Hồng Thao (1982); Fonclo Bahna, do ông Chủ biên (1988); Nhạc cụ các dân tộc thiểu số Việt Nam(1995); Tư liệu Âm nhạc cung đình Việt Nam(2000); Ghi chép về văn hóa và âm nhạc - công trình đồ sộ, dày hơn 900 trang, với 43 bài nghiên cứu sâu rộng, sâu sắc về văn hóa và 30 bài nghiên cứu sâu sắc về âm nhạc.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì (2019), Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhất (2001) và nhiều huy chương các loại. Ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Luôn xác định rõ "đường ngàn dặm bắt đầu từ dưới chân mình" nên mỗi việc GS.TSKH Tô Ngọc Thanh làm đều kiên định với ý chí bảo tồn, phát huy văn hoá dân gian, dân tộc Việt Nam. Tâm, Đức và Nhẫn trong cuộc hành trình của đời ông, đã chảy như một dòng sông, thanh khiết từ cội nguồn, qua bao thác ghềnh, để về biển cả vừa thăm thẳm vừa quyết liệt những đợt sóng trắng bạc đầu, khôn nguôi…
“Tôi luôn kính trọng thầy tôi - GS. TSKH Tô Ngọc Thanh bởi tầm nhìn, sự hiểu biết về những vấn đề của di sản văn hóa dân tộc. Ông không chỉ là người thầy mà còn như một người cha, người chú, người bạn vong niên, tôi có thể chia sẻ, tranh cãi với sư phụ về mọi thứ mà không bao giờ có khoảng cách giữa thầy và trò”, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền bày tỏ.
Ông Hiền là người đã ghi lại thang âm của cồng chiêng Tây Nguyên, góp phần không nhỏ vào việc làm hồ sơ đưa không gian cồng chiêng trở thành di sản văn hóa thế giới. Ông cũng cho biết, cách thức ghi lại thang âm này chính là do Giáo sư Tô Ngọc Thanh gợi ý cho ông để tôn vinh âm nhạc cồng chiêng.
Văn Lâm gặp chấn thương bắp chân trong quá trình tập luyện, được đánh giá là không kịp hồi phục. Như vậy, vị trí chính thức trong khung gỗ gần như chắc chắn thuộc về thủ môn Nguyễn Filip, bên cạnh hai sự lựa chọn khác là Nguyễn Đình Triệu và Trần Trung Kiên.
Văn Trường, Thái Sơn, Quốc Việt và Đình Bắc bị gạch tên do yếu tố chuyên môn không phù hợp. Điều này đã được giới chuyên môn dự đoán từ trước, do thuộc nhóm thi đấu ít nhất trong ba trận đấu tập tại Hàn Quốc vừa qua. Bảo Toàn và Văn Đức được cho không đáp ứng yêu cầu thể lực.