VietNamNettrao đổi với ông Nguyễn Tư Long - Phó Vụ trưởng Vụ Công chức - Viên chức (Bộ Nội vụ) liên quan đến yêu cầu chứng chỉ chức danh nghề nghiệp trong việc bổ nhiệm, xếp hạng giáo viên (theo các thông tư 01, 02, 03, 04 của Bộ GD-ĐT).Xây dựng các bộ tiêu chuẩn thuộc trách nhiệm của Bộ GD-ĐT
Là người tham mưu về công tác quản lý viên chức, theo Ông, yêu cầu về chứng chỉ chức danh nghề nghiệp trong việc xếp hạng giáo viên xuất phát từ đâu?
Phải khẳng định để làm bất cứ một công việc gì đều phải có các tiêu chuẩn của nó. Luật Viên chức cũng như trong các Nghị định (từ Nghị định 29 trước đây cho đến Nghị định 115 mới sửa đổi năm 2020) đều quy định đối với mỗi chức danh nghề nghiệp viên chức phải có tiêu chuẩn của chức danh nghề nghiệp và trách nhiệm của Bộ Nội vụ, cũng như các bộ chuyên ngành trong việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với đội ngũ viên chức thuộc phạm vi quản lý của mình.
 |
Ông Nguyễn Tư Long - Phó Vụ trưởng Vụ Công chức - Viên chức (Bộ Nội vụ) |
Đối với đội ngũ giáo viên thì việc xây dựng các bộ tiêu chuẩn đối với từng cấp phổ thông thuộc trách nhiệm của Bộ GD-ĐT. Điều này được quy định trong Luật và cũng được quy định rất rõ trong Nghị định 29 trước đây và Nghị định 115 mới ban hành năm 2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức danh nghề nghiệp thì các bộ chuyên ngành phải tổ chức các lớp bồi dưỡng để đội ngũ giáo viên đáp ứng được các tiêu chuẩn đó và ai hoàn thành lớp bồi dưỡng thì sẽ được cấp chứng chỉ chức danh nghề nghiệp.
Xin Ông nói rõ hơn, Luật Viên chức có đưa ra yêu cầu về chứng chỉ chức danh nghề nghiệp trong việc xếp hạng giáo viên hay không?
Luật quy định các chức danh nghề nghiệp đều phải có tiêu chuẩn và từng hạng chức danh nghề nghiệp cũng phải có tiêu chuẩn khác nhau.
Ví dụ, cùng là giáo viên nhưng giáo viên trung học khác giáo viên trung học cơ sở, giáo viên mầm non…
Cùng giáo viên trung học cơ sở thì lại có các hạng chức danh khác nhau thể hiện trình độ tương ứng với vị trí việc làm khác nhau như tôi đã nói bên trên. Và từng hạng chức danh nghề nghiệp thì cũng có những tiêu chuẩn khác nhau. Người giữ hạng chức danh nghề nghiệp cao hơn thì đòi hỏi phải thực hiện những công việc với độ phức tạp lớn hơn, yêu cầu cũng cao hơn hạng dưới.
Theo lãnh đạo Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GD-ĐT), quy định giáo viên phải có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp tại các Thông tư liên tịch số 20, 21, 22, 23/2015/TTLT-BGDĐT-BNV (trước đây) và các Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT (thay thế các Thông tư liên tịch số 20, 21, 22, 23/2015/TTLT-BGDĐT-BNV) thực hiện theo quy định tại Luật Viên chức 2010 và Nghị định số 101 của Chính phủ. Vị này cũng cho hay, ngành giáo dục cũng nỗ lực trong việc đề nghị được thay các chứng chỉ này bằng các chứng chỉ chuyên ngành nhưng đây là quy định của Luật Viên chức và Nghị định số 101 thì không thể làm khác được. Vì vậy, muốn bỏ quy định về chứng chỉ bồi dưỡng theo Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên thì cần thiết phải xem xét, sửa các quy định này tại Luật Viên chức và Nghị định số 101/2017/NĐ-CP theo hướng mở rộng quy định tại Luật Viên chức và Nghị định số 101/2017/NĐ-CP là có thể sử dụng chứng chỉ của chuyên ngành thay thế. |
Đấy là về tiêu chuẩn của từng chức danh và từng hạng chức danh. Nhưng làm cách nào để đạt được các tiêu chuẩn này thì lại là câu chuyện khác.
Thí dụ như tiêu chuẩn về đào tạo là phải tốt nghiệp đại học sư phạm thì đó là tiêu chuẩn cứng, tức là đã đi dạy, đứng lớp thì phải tốt nghiệp đại học sư phạm trở lên.
Còn đối với người không tốt nghiệp đại học sư phạm nhưng muốn đi giảng dạy thì phải qua lớp bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm thì mới được giảng dạy, đó là chứng chỉ bồi dưỡng.
Như vậy, những người đã tốt nghiệp sư phạm rồi thì không phải học lớp này nữa vì trong trường họ đã được học rồi.
Bỏ hay không bỏ: Bộ GD-ĐT cần có chính kiến
Vậy chứng chỉ bồi dưỡng như ông nói và chứng chỉ chức danh nghề nghiệp có gì khác nhau và theo Ông, chứng chỉ chức danh nghề nghiệp trong việc xếp hạng giáo viên có cần thiết?
Giáo viên trung học cơ sở là một chức danh nghề nghiệp. Trong chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở thì lại phân ra các hạng chức danh như giáo viên THCS hạng I, hạng II và hạng III.
Chứng chỉ chức danh nghề nghiệp được xây dựng căn cứ vào tiêu chuẩn của từng hạng chức danh nghề nghiệp đó. Tiêu chuẩn thì phải căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu của vị trí việc làm và thể hiện năng lực, trình độ tương ứng với vị trí việc làm.
Tôi lấy thí dụ một giáo viên mới ra trường thì có thể đi dạy ngay nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn nhưng chưa thể bổ nhiệm vào chức danh giáo viên hạng II hoặc hạng I vì chưa có đủ kinh nghiệm và các kỹ năng cần thiết khác như các giáo viên đã đi dạy 5, 7 năm.
Một số ngành nghề còn yêu cầu phải đáp ứng tiêu chuẩn về kinh nghiệm công tác tối thiểu, đạt chuẩn hạng nhất định trở lên thì mới được giữ các vị trí làm công tác lãnh đạo quản lý (tổ trưởng bộ môn, hiệu phó, hiệu trưởng), vì anh không kinh qua kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp thì không thể quản lý được.
Vì vậy, chứng chỉ chức danh nghề nghiệp phản ánh trình độ, năng lực, kinh nghiệm của viên chức nói chung và đội ngũ giáo viên nói riêng. Còn chứng chỉ bồi dưỡng thì như tôi nói bên trên có thể là 1 loại chứng chỉ bổ sung phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp.
Chúng ta cũng đừng nên có suy nghĩ “cứ chứng chỉ là không tốt”. Nếu chứng chỉ phục vụ cho đúng yêu cầu của quản lý nhà nước, đáp ứng đúng yêu cầu của đội ngũ viên chức xuất phát từ việc nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của họ thì “chứng chỉ không có tội tình gì cả”, không việc gì phải bỏ đi cả.
Nhưng vấn đề của các loại chứng chỉ bây giờ tôi hiểu đang có sự lẫn lộn, quá nhiều và nội dung trùng lắp, vì vậy mới gây những bức xúc trong đội ngũ giáo viên gần đây. Vì vậy, điều cần thiết bây giờ không phải là bỏ hay không bỏ một loại chứng chỉ nào đó mà cần phải rà soát lại hết tất cả những yêu cầu về điều kiện bắt buộc của từng loại chứng chỉ và đặc biệt là nội dung, chương trình của các loại chứng chỉ xem có xuất phát từ đúng yêu cầu của tiêu chuẩn, vị trí việc làm hay không để tránh lãng phí, tốn kém cho xã hội.
Để làm được việc này thì cái gốc là cơ quan quản lý nhà nước phải đưa ra được quy định về tiêu chuẩn đối với từng chức danh nghề nghiệp. Trong từng chức danh nghề nghiệp thì đâu là tiêu chuẩn đối với từng hạng chức danh nghề nghiệp, từ đó mới xây dựng hệ thống bồi dưỡng theo quy định.
Nhiều ý kiến đề nghị bỏ chứng chỉ chức danh nghề nghiệp với giáo viên. Ông nghĩ thế nào về điều này?
Bỏ hay không bỏ chứng chỉ này thì Bộ Nội vụ không khẳng định được. Việc này phải lấy ý kiến rộng rãi của những người trực tiếp chịu tác động.
Bộ GD-ĐT là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thì hơn ai hết Bộ phải rà soát lại và phải có chính kiến về việc bỏ hay không bỏ, có cần hay không cần chứng chỉ này và lý do của việc bỏ hay giữ là gì.
Vấn đề nếu bỏ đi thì cũng phải xác định rất rõ phương thức quản lý sẽ như thế nào?
Trao đổi với VietNamNet, ĐBQH Phạm Thị Minh Hiền cho biết, sau khi Bộ GD-ĐT ban hành chùm thông tư nói trên, bà nhận được rất nhiều phản ảnh với những luồng ý kiến khác nhau của chính những người làm trong ngành giáo dục về chứng chỉ tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên. Trong đó, đa số ý kiến không đồng tình và nhiều ý kiến đề nghị bỏ chứng chỉ này. "Tôi đang tiếp tục nghiên cứu, phân loại, tổng hợp các nhóm ý kiến để gửi kiến nghị đến Bộ GD-ĐT trong kỳ họp cuối của Quốc hội khóa XIV sắp tới để Bộ nghiên cứu, xem xét. Trong đó, chúng tôi kiến nghị Bộ GD-ĐT cần phải phân tích chính sách để điều chỉnh hoặc có hướng dẫn cụ thể hơn nữa", ĐBQH Phạm Thị Minh Hiền nói. Theo bà Hiền, một chính sách vừa ban hành có nhiều ý kiến khác nhau thì cơ quan ban hành cần xem xét lại để có chỉnh sửa hợp lý. Tuy việc này có liên quan đến Bộ Nội vụ nhưng Bộ GĐ-ĐT là cơ quan ban hành thông tư thì phải chủ động chủ trì rà soát, xem xét để đưa hướng tháo gỡ hợp lý. |
Thu Hằng

Chuyển từ quản lý theo chứng chỉ sang quản lý theo thực tài
Then chốt thay đổi ở toàn bộ câu chuyện quản lý viên chức chính là chuyển từ quản lý theo văn bằng, chứng chỉ sang quản lý theo thực tài.
" alt=""/>Chứng chỉ chức danh nghề nghiệp giáo viên: Bộ Nội vụ nói gì?
Lớp 10 tăng cường tiếng AnhTP.HCM khuyến khích các trường THPT có điều kiện về giáo viên và cơ sở vật chất mở lớp 10 tăng cường tiếng Anh.
Việc tuyển sinh vào các lớp 10 tăng cường tiếng Anh được thực hiện trong số học sinh đã trúng tuyển vào lớp 10 của trường với các yêu cầu: Điểm số từng kỹ năng của toàn năm lớp 9 tăng cường tiếng Anh đạt từ 6.0 điểm trở lên hoặc có chứng chi ngoại ngữ bậc 3 hoặc chứng chỉ đạt trình độ B1 trở lên theo khung CEFR hoặc chứng chỉ Cambridge PET đạt từ 140/170 (hoặc 140/210) trở lên hoặc FCE đạt từ 140/190 (hoặc 140/210 điểm) trở lên hoặc chứng chỉ TOEFL Junior đạt từ 785/900 điểm trở lên hoặc cấp độ 1 (Level 1) từ 56 điểm trở lên của PTE General hoặc chứng chỉ PTE General Level 2 đạt hoặc là học sinh học Chương trình tiếng Anh tích hợp cấp trung học cơ sở có điểm trung bình môn tiếng Anh tích hợp lớp 9 từ 6.0 trở lên hoặc các chứng chỉ tiếng Anh tương đương;
Tốt nghiệp trung học cơ sở loại Khá, Giỏi.
Lớp 10 chương trình Tiếng Anh tích hợp
Sĩ số lớp Tiếng Anh tích hợp từ 25 đến 35 học sinh/lớp, nếu số lượng học sinh đậu và nộp hồ sơ học không đủ 25 học sinh trở lên các trường không mở lớp Tiếng Anh tích hợp tại trường đó. Các học sinh đã nộp hồ sơ, sẽ được xem xét chuyển về học tại trường có mở lớp tiếng Anh tích hợp còn chỉ tiêu hoặc xét tuyển lớp 10 theo 3 nguyện vọng hoặc chuyển đổi loại hình học tập phù hợp.
 |
Điểm chuẩn vào lớp 10 chuyên ở TP.HCM tăng cao nhất 7 điểm |
Để vào lớp tiếng Anh tích hợp, học sinh phải đầy đủ các điều kiện của 1 trong 2 nhóm:
Nhóm 1: Học sinh có tham gia học chương trình tiếng Anh tích hợp cấp THCS tại TP.HCM phải thỏa các điều kiện: tham gia dự tuyển sinh vào lớp 10 trung học phổ thông tại TP.HCM; đăng ký 2 nguyện vọng chương trình Tiếng Anh tích hợp (nguyện vọng 1 và nguyện vọng 2).
Căn cứ vào điểm thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT và điểm trung bình của chương trình Tiếng Anh tích hợp, những học sinh này sẽ được ưu tiên bố trí vào những trường có dạy chương trình tiếng Anh tích hợp.
Cách tính điểm xét tuyển chương trình Tiếng Anh tích hợp được tính: Điểm xét tuyển = điểm Ngữ văn + điểm Ngoại ngữ + điểm Toán + Điểm trung bình của chương trình Tiếng Anh tích hợp (theo thang điểm 10).
Nhóm 2, học sinh không tham gia học chương trình Tiếng Anh tích hợp cấp THCS tại TP.HCM phải thỏa các điều kiện: Tốt nghiệp THCS loại từ khá trở lên; Có tham gia dự tuyển sinh lớp 10 THPT tại TP.HCM. Ngoài 3 môn quy định Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ, học sinh phải đăng ký và dự thi môn Tiếng Anh tích hợp. Học sinh đăng ký 2 nguyện vọng chương trình Tiếng Anh tích hợp (nguyện vọng 1 và nguyện vọng 2).
Cách tính điểm tuyển chương trình Tiếng Anh tích hợp như sau: * Điểm xét tuyển = điểm Ngữ văn + điểm Ngoại ngữ + điểm Toán + Điểm thi môn tiếng Anh tích hợp (theo thang điểm 10).
Lớp 10 tăng cường tiếng Trung
Các trường THPT Hùng Vương, THPT Trần Khai Nguyên, THPT Trần Quang Khải và THPT Nam Kỳ Khởi Nghĩa tuyển sinh lớp 10 tăng cường tiếng Trung trong số học sinh đã trúng tuyển vào lớp 10 của trường với điểm số từng kỹ năng của toàn năm lớp 9 tăng cường tiếng Trung đạt từ 6 điểm trở lên hoặc có chứng chỉ B tiếng Trung trở lên.
Lớp 10 tiếng Nhật(ngoại ngữ 1):
Các trường THPT Lê Quý Đôn, THPT Trưng Vương và THPT Marie Curie tuyển sinh lớp 10 tiếng Nhật (ngoại ngữ 1). Học sinh muốn học tiếng Nhật (ngoại ngữ 1) phải thỏa các điều kiện: đã học THCS tiếng Nhật (ngoại ngữ 1) tại Trường THCS Lê Quý Đôn, Quận 3 hoặc Trường THCS Võ Trường Toản, Quận 1; Đăng ký nguyện vọng lớp 10 vào trường có dạy tiếng Nhật (ngoại ngữ 1) và môn thi Ngoại ngữ của tuyển sinh lớp 10 là môn tiếng Nhật; Trúng tuyển lớp 10 vào trường có dạy tiếng Nhật (ngoại ngữ 1), đồng thời có điểm thi tuyển sinh môn tiếng Nhật từ 5.0 trở lên.
Lớp 10 tiếng Pháp:
Chương trình tiếng Pháp song ngữ:
Sau khi được công nhận tốt nghiệp THCS, học sinh các lớp THCS trong khuôn khổ chương trình tiếng Pháp song ngữ phải qua kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 và kỳ thi tốt nghiệp THCS trong khuôn khổ chương trình tiếng Pháp song ngữ theo quy định của Bộ GD-ĐT. Sau khi có kết quả kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT và thi tốt nghiệp THCS trong khuôn khổ Chương trình tiếng Pháp song ngữ, những học sinh này sẽ được ưu tiên bố trí vào 1 trong 3 trường theo thứ tự điểm tuyển, đó là Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Trường THPT Marie Curie.
Cách tính điểm tuyển như sau: Điểm yển = (Điểm trung bình tuyển sinh lớp 10) x 2 + Điểm trung bình cộng tiếng Pháp trong kỳ thi tốt nghiệp THCS trong khuôn khổ chương trình tiếng Pháp song ngữ.
Tăng cường tiếng Pháp:
Các trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai và THPT Marie Curie tuyển sinh lớp 10 tăng cường tiếng Pháp trong số học sinh đã trúng tuyển vào lớp 10 của trường và theo đúng quy định của GD-ĐT. Tuyển thí sinh đã học xong chương trình tiếng Pháp song ngữ cấp THCS và có điểm thi tuyển sinh môn tiếng Pháp từ 5 điểm trở lên.
Tiếng Pháp (ngoại ngữ 2):
Các trường THPT Chuyên Trần Đại Nghĩa và THPT Phan Đăng Lưu tuyển tiếng Pháp (ngoại nhữ 2) từ những học sinh đã trúng tuyển lớp 10 của trường.
Lớp 10 tiếng Hàn (ngoại ngữ 2)
Trường THPT Thủ Đức tuyển sinh lớp 10 tiếng Hàn từ những học sinh đã trúng tuyển lớp 10 của trường.
Lớp 10 tiếng Đức
Lớp 10 tiếng Đức (ngoại ngữ 1)yêu cầu học sinh phải đăng ký nguyện vọng vào các trường có dạy tiếng Đức và thi môn Ngoại ngữ tuyển sinh 10 là tiếng Đức; Trúng tuyển vào lớp 10 trường có dạy tiếng Đức và có điểm thi môn Ngoại ngữ - tiếng Đức từ 5 trở lên.
Lớp 10 tiếng Đức (ngoại ngữ 2): Trường THPT Chuyên Trần Đại Nghĩa, THPT Nguyễn Thị Minh Khai, THPT Nguyễn Khuyến và THPT Nguyễn Thượng Hiền tuyển lớp 10 tiếng Đức (ngoại ngữ 2) từ những học sinh đã trúng tuyển lớp 10 vào trường.
Minh Anh

Tuyển thẳng và cộng điểm ưu tiên thi vào lớp 10 TP.HCM như thế nào?
UBND TP.HCM quy định rõ việc cộng điểm ưu tiên trong kỳ thi vào lớp 10 với các mức từ 1 đến 2 điểm.
" alt=""/>Tuyển sinh lớp 10 các chương trình ngoại ngữ ở TP.HCM như thế nào?