Ưu tiên của các công ty là phát triển công nghệ nhằm hỗ trợ nhân viên làm việc tại các địa điểm linh hoạt, ứng dụng dịch vụ đám mây cho khả năng mở rộng và giảm đầu tư trực tiếp, cũng như tiết kiệm chi phí, ông Tatchapol nói.
Các doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí bằng cách tối ưu hóa các hệ thống và thiết bị hiện có để giảm chi phí bảo trì.
Ông Tatchapol cho biết, nhu cầu bảo mật đám mây được nhấn mạnh bởi sự phát triển của các ứng dụng đám mây. Chẳng hạn như chính phủ Thái Lan đã phát triển một ứng dụng truy vết liên lạc - Thai Chana, trên đám mây nhằm đáp ứng khả năng mở rộng.
Trong nửa đầu năm 2020, chi tiêu an ninh mạng tại Thái Lan chủ yếu là các yếu tố liên quan được quy định theo Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân (PDPA), bao gồm cả chữ ký điện tử. Theo đó, PDPA dự kiến có hiệu lực đầy đủ vào tháng 5 năm nay sau thời gian ân hạn một năm. Tuy nhiên, do tác động của đại dịch Covid-19 nên chính phủ Thái Lan đã đồng ý hoãn thi hành hầu hết các chương trong Đạo luật thêm một năm nữa nhằm giúp cho các khu vực công và tư nhân có thêm thời gian chuẩn bị.
Ông Tatchapol Poshyanonoda cho biết, các dịch vụ đám mây ở Thái Lan được dự báo sẽ tăng 29% từ năm 2018 đến năm 2025, với giá trị thị trường dự kiến sẽ đạt 31,5 tỷ baht vào năm 2025, dựa trên dự báo của Cơ quan Xúc tiến Kinh tế số.
Bảo mật dựa trên đám mây được báo cáo là giải pháp an ninh mạng được áp dụng phổ biến nhất ở Thái Lan, chiếm 70%. Các công cụ quen thuộc như phần mềm chống phần mềm độc hại và phần mềm chống vi-rút vẫn còn phổ biến ở nước này, chiếm 61%, trong khi đó các mạng diện rộng được điều khiển bằng phần mềm chiếm 60% và bảo mật cho mô hình phân phối dịch vụ ứng dụng phần mềm (SaaS) cũng được áp dụng rộng rãi với 42%.
Khi Thái Lan trở thành nhà cung cấp đầu tiên cho 5G tại khu vực Đông Nam Á, 28% các công ty được khảo sát ở Thái Lan đã mạo hiểm đầu tư vào bảo mật 5G cho Internet vạn vật (IoT), ông Tatchapol nói.
Ông cho biết 75% các công ty được khảo sát ở Thái Lan đã tăng ngân sách an ninh mạng từ năm 2019 đến 2020.
Cuộc khảo sát này là một phần trong báo cáo “Tình trạng an ninh mạng ở khu vực Đông Nam Á” được phát hành gần đây của công ty Palo Alto Networks, họ đã tiến hành khảo sát 400 công ty ở Thái Lan, Singapore, Indonesia và Philippines, trong đó mỗi quốc gia họ khảo sát 100 công ty, trong thời gian từ ngày 6 đến 15/2 vừa qua.
Kết quả cho thấy, khoảng 40% các công ty được khảo sát ở Thái Lan đã báo cáo phân bổ hơn một nửa ngân sách CNTT của họ cho an ninh mạng.
Điều này chủ yếu xuất phát từ sự tinh vi của các mối đe dọa (75%), nhu cầu nâng cấp các khung phần mềm hiện có để kết hợp tự động hóa (69%) và khả năng đối phó với khối lượng tấn công ngày càng tăng (68%).
Ông Tatchapol cho biết, Palo Alto Netwworks đang cung cấp dịch vụ an ninh mạng cho khách hàng doanh nghiệp theo phương thức trả sau vào cuối năm, vì các công ty đang phải đối mặt với thời kỳ khó khăn, cũng như cung cấp chương trình cho thuê.
Trong khi đó, ông Khongsak Kortrakul, Giám đốc khu vực Đông Nam Á tại Thái Lan và Đông Dương của công ty Palo Alto Netwworks cho biết, các mã độc tống tiền có thể sẽ tiếp tục là mối đe dọa đối với người dùng, các cuộc tấn công phi kỹ thuật vẫn là vấn đề đáng lo ngại khi những kẻ tấn công nhằm đánh cắp tài khoản hoặc thông tin người dùng.
Các cuộc tấn công mạng cũng sẽ chuyển sang các thiết bị IoT cùng với việc triển khai mạng 5G, ông Khongsak nói.
Phan Văn Hòa (theo Bangkokpost)
Theo kế hoạch, công ty ZMP của Nhật Bản sẽ thử nghiệm một loại robot giao hàng tự động vào tháng 8 tới.
" alt=""/>Thái Lan đầu tư mạnh vào CNTT và an ninh mạng bất chấp đại dịchMột tài xế ở San Francisco cầm tấm biển in dòng chữ: "Uber/Lyft nợ tiền tôi".
Nền kinh tế bóc lột
Uber hay Lyft là đại diện tiêu biểu của "nền kinh tế tạm bợ" (gig economy). Trong nền kinh tế này, người lao động làm việc bán thời gian, tạm bợ trong khi các công ty chỉ muốn sử dụng lao động tự do thay vì lao động có hợp đồng. Người lao động được dán cái nhãn nghe rất kêu là "đối tác độc lập". Họ làm việc cho các ứng dụng gọi xe, giao đồ ăn, gọi người giúp việc nhà...
Theo Forbes, một khảo sát hồi năm 2018 cho thấy có tới 57 triệu người lao động Mỹ tham gia vào "nền kinh tế tạm bợ". Ở Anh, khoảng 4,7 triệu người trở thành "đối tác độc lập" của các công ty "kinh tế tạm bợ". Tại Đông Nam Á, chỉ riêng Grab có ít nhất 2,7 triệu tài xế còn Gojek có khoảng 1 triệu tài xế.
Khi quảng bá dịch vụ mới, các startup công nghệ ở Thung lũng Silicon (hay bất kỳ nơi nào khácc) thường khẳng định khả năng "cách mạng hóa công việc" và "trao cho người lao động quyền tự sắp xếp lịch làm việc riêng". Chẳng hạn, hãng gọi xe Lyft lôi kéo các tài xế với câu hỏi: "Bạn có muốn trở thành ông chủ của chính mình không?".
TaskRabbi, ứng dụng kết nối các hộ gia đình với người lao động tự do, đưa ra những lời quảng cáo như: "Tìm công việc bạn yêu thích cùng mức lương bạn chọn và lịch làm việc phù hợp với cuộc sống của bạn". Tuy nhiên, thực tế không phải là màu hồng.
Ví dụ, Uber và Lyft xác định tài xế là "đối tác độc lập" chứ không phải là nhân viên chính thức. Nhờ đó, hai công ty này không phải đóng nhiều loại thuế, chi trả bảo hiểm xã hội và y tế, tiền tăng ca hoặc lương tối thiểu cho hàng trăm nghìn tài xế. Là "đối tác độc lập", tài xế không có quyền thành lập công đoàn lao động hay thương lượng hợp đồng.
![]() |
Tài xế Uber và Lyft biểu tình ở San Francisco hồi tháng 4/2019. Trong ảnh một người cầm tờ giấy in dòng chữ: "Uber/Lyft đẩy tài xế vào cảnh đói nghèo và tự sát". |
Uber và Lyft lập luận rằng phần lớn tài xế muốn duy trì hình thức "đối tác độc lập" vì có thể linh hoạt giờ giấc làm việc. Tuy nhiên, trên thực tế Uber và Lyft sử dụng các thuật toán để buộc tài xế phải tuân thủ những quy định về đón, trả khách để được nhận đủ thu nhập hoặc thay đổi mức giá để ép tài xế làm việc trong những múi giờ cụ thể.
Do đó, trên thực tế các tài xế buộc phải làm việc liên tục hàng ngày và bị giám sát nghiêm ngặt, không hề được hưởng chế độ làm việc linh hoạt như Uber và Lyft quảng cáo. "Các tài xế không thể tự kiểm soát công việc và số phận của họ", luật sư Bryant Greening của hãng luật LegalRideshare nhấn mạnh.
Theo Vox, thực tế là đằng sau những lời quảng bá đường mật, "nền kinh tế tạm bợ" thực chất hoạt động trên cơ sở bóc lột người lao động một cách tàn tệ. Ví dụ, hồi năm 2019, Uber mạnh tay cắt giảm tiền ăn chia cho tài xế ở các thành phố lớn tại Mỹ để tô hồng kết quả kinh doanh và thu hút các nhà đầu tư.
Sống trong túng quẫn
Kiếm sống trong một nền kinh tế bóc lột như vậy, người lao động tạm bợ không thể dư dả. Theo báo cáo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) hồi năm 2019, có tới 58% người lao động tạm bợ làm việc toàn thời gian cho biết họ không kiếm đâu ra đủ tiền mặt nếu cần chi 400 USD để thanh toán một hóa đơn khẩn cấp.
Với người lao động không làm việc trong nền kinh tế tạm bợ, tỷ lệ này chỉ 38%. Điều đó là rất dễ hiểu, bởi người lao động làm việc trong nền kinh tế tạm bợ là những đối tượng dễ bị tổn thương. Họ không có bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp, ngày nghỉ được trả lương và phúc lợi lao động cơ bản khác.
Trong một cuộc khảo sát hồi tháng 7/2019 của Đại học California Berkeley, hơn 50% tài xế lái xe của các ứng dụng gọi xe tại thành phố New York làm việc toàn thời gian. Khoảng 50% trong số đó phải nuôi gia đình và có con nhỏ. Thu nhập của họ thấp đến nỗi hơn 40% tài xế đủ điều kiện nhận bảo hiểm y tế Medicaid và khoảng 18% đủ tiêu chuẩn nhận phiếu thực phẩm.
Do khó khăn tài chính, hàng chục nghìn tài xế Uber và Lyft đã biểu tình đòi quyền lợi tại các thành phố lớn ở Mỹ, Australia và Brazil hồi năm 2019. Và chính quyền nhiều địa phương tại Mỹ đã ra tay can thiệp. Tuần trước, Tòa án Cấp cao California ra phán quyết buộc Uber và Lyft phải công nhận các tài xế là "nhân viên chính thức" thay cho "đối tác độc lập".
Điều đó đồng nghĩa với việc Uber và Lyft phải đảm bảo các phúc lợi như bảo hiểm y tế và xã hội, lương ngoài giờ, nghỉ bệnh có lương... cho tài xế. Quy định này sẽ được thực thi từ ngày 20/8. Uber và Lyft dọa sẽ ngừng hoạt động tại California, nhưng nếu làm như vậy sẽ đánh mất một thị trường to lớn trong thời điểm doanh thu lao dốc vì dịch Covid-19.
![]() |
Mô hình kinh doanh của Uber và Lyft đối mặt với sự sụp đổ sau phán quyết của tòa án California. |
Trên Medium.com, nhà phân tích Brian Merchant nhận định các startup như Uber và Lyft trở nên nổi tiếng nhờ rao bán đủ loại ảo tưởng, từ dự báo sẽ sớm có lãi nhờ chiếm lĩnh thị trường cho đến "cách mạng hóa công việc". Nhưng cuối cùng thì đó chỉ là những công ty taxi lợi dụng cái tiếng "công nghệ", và hoạt động dựa trên hành vi bóc lột sức lực của người lao động.
Theo ông Merchant, phán quyết của Tòa án Cấp cao California sẽ đặt dấu chấm hết cho mô hình kinh doanh của Uber và Lyft. Việc hai hãng này tuyên bố sẵn sàng rút khỏi California chỉ là lời đe dọa vô nghĩa, cho thấy họ đang lo lắng và bối rối.
"Chúng ta nên mừng vì những ảo tưởng mà các công ty này rao bán đang vỡ vụn. Bởi nếu mô hình kinh doanh này trở thành tiêu chuẩn hàng ngày, chúng ta sẽ đối mặt với tương lai vô cùng u ám. Ở đó, người lao động sẽ sống mòn với mức lương bèo bọt trong khi các ông chủ nền tảng giàu to", nhà phân tích này nhấn mạnh.
Theo Zing
Nhiều tài bế beBike tập trung đông gần trụ sở be tại Hà Nội để đưa ra yêu sách giảm chiết khấu và tăng thưởng khi chính sách thưởng mới tại Hà Nội được áp dụng từ hôm nay (17/8).
" alt=""/>Tài xế công nghệ