- Đoạn clip ghi lại cảnh tài xế xe container vừa gác chân lên vô lăng điều khiển,àixếcontainerláixebằngchânquacầutửthầ24h tin tức trong ngày vừa nói chuyện điện thoại trên cầu khiến người xem không khỏi rùng mình.
'Quái xế' vắt chân, ngồi lệch người 'lao như bay' trên quốc lộ
Các cảnh nóng trên phim xuất hiện nhiều hơn sau khi khâu kiểm duyệt được nới lỏng.
Ngoài ra, ở các phân loại cảnh nóng, khách mời cũng chỉ ra nhiều yếu tố khó phân biệt ví dụ như ở T16 (Cấm khán giả dưới 16 tuổi) và T18 (Cấm khán giả dưới 18 tuổi). Trong dự thảo ghi cảnh tình dục không được "mô tả thường xuyên và chi tiết", "không kéo dài". Một nhà sản xuất cho rằng các từ ngữ được sử dụng trong văn bản mang tính định tính nhiều hơn định lượng. "Chúng tôi muốn biết "không thường xuyên", "không kéo dài", cụ thể là bao nhiêu", nhà sản xuất phim Trần Thị Bích Ngọc nói.
Ngoài ra, những yêu cầu trong thông tư như "hành vi tình dục của con người được thể hiện một cách nghệ thuật hay chân thực" còn chung chung. Điều này theo các chuyên gia sẽ trở thành câu hỏi lớn cho các nhà làm phim lẫn khán giả bởi quan niệm mỗi người về sex trên màn ảnh là hoàn toàn khác nhau. Trong khi đó, ranh giới giữa nghệ thuật phản ánh và sự phản cảm rất mong manh.
Cần siết chặt dán nhãn cảnh nóng, bạo lực trên truyền hình và internet
Bên cạnh 5 xếp loại phim, Luật Điện ảnh sửa đổi có thêm loại K - khán giả dưới 13 tuổi cần cho cha, mẹ hoặc người giám hộ đi cùng khi vào rạp. Đây được xem là điểm đổi mới, tạo sự thông thoáng cho các nhà sản xuất lẫn khán giả.
Đạo diễn Phan Gia Nhật Linh cho rằng việc dán nhãn cần được xác định rõ mục đích. Ở nước ngoài, đây là cách để bảo vệ trẻ em khỏi những hình ảnh không phù hợp độ tuổi. Đạo diễn Em và Trịnhnhận định điều này góp phần tăng tính trách nhiệm của phụ huynh trong việc bảo vệ, trông coi con em khi thưởng thức phim ảnh.
Đạo diễn Phan Gia Nhật Linh.
Việc một số phim Việt gần đây không bị kiểm duyệt cắt cảnh nóng là dấu hiệu tích cực, giúp các nhà làm phim không bị gò bó quá nhiều. Mặt khác, điều này cũng đặt ra không ít thách thức trong quá trình quản lý khi tác phẩm phát hành. Mặt khác, một thực trạng ở nền tảng trực tuyến hiện rất ít dán nhãn hoặc hầu như không có biện pháp để giám sát người xem. Khán giả là đối tượng trẻ em chỉ cần có thiết bị điện tử vẫn có thể xem tất cả các phim.
Đạo diễn Công Hậu - Phó Chủ tịch Hội Điện ảnh TP cho biết việc dán nhãn, phân loại phim cần được tiến hành gắt gao, quyết liệt hơn. Không dừng ở phim chiếu rạp, công tác này cũng cần phải được quan tâm sâu sát ở các mảng phim truyền hình, trực tuyến,… “Công tác quản lý các phim ngoại chưa được siết chặt. Tôi nhận thấy một số đài truyền hình vẫn chiếu các phim có nội dung đồi trụy, bạo lực và nhan nhản khắp nơi. Với đối tượng hướng đến là gia đình có người lớn, điều này rất nguy hại”, ông nói.
Xử phạt nặng những đơn vị vi phạm dán nhãn
Ông Vi Kiến Thành – Cục trưởng Cục Điện ảnh cho rằng Luật Điện ảnh bản sửa đổi có nhiều điểm thay đổi tích cực. Chính sự cởi mở hơn trong xét duyệt góp phần tạo sân chơi thoải mái cho các nhà làm phim, đồng thời phù hợp xu thế phát triển của điện ảnh quốc tế.
Ngoài các tác phẩm chiếu phương thức truyền thống, ông Thành lưu tâm thêm dòng thêm chiếu mạng trên các nền tảng trực tuyến – xu thế phát triển chính của phim ảnh hiện nay. Sau khi lắng nghe góp ý của các đại biểu, ban soạn thảo sẽ tiến hành điều chỉnh, hoàn thiện và trình Chính phủ vào tháng 11 để thông tư đi vào hoạt động.
Ông Lê Thanh Liêm, Vụ trưởng Vụ pháp chế (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cho biết ông cùng các bộ phận có liên quan sẽ tiến hành trao đổi thêm để đưa ra những điều khoản chi tiết nhất nhằm đảm bảo không vướng mắc khi áp dụng. Ngoài các thông tư, cơ quan chức năng cũng xây dựng khung chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm, không tuân thủ quy định được đưa ra.
Ngày 15/6. Luật điện ảnh (sửa đổi) được biểu quyết thông qua với với 449/467 (chiếm 90,16%). Luật có 8 chương, với 48 điều và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2023. Với những điểm mới, đông đảo đạo diễn, nhà sản xuất, đơn vị phát hành, đại diện các hiệp hội phim kỳ vọng cho nền phim ảnh Việt Nam.
Theo dự thảo Luật, phim được phân loại theo nội dung để phổ biến phù hợp với độ tuổi như sau: Loại P là phim được phép phổ biến đến người xem ở mọi độ tuổi; loại T18 là phim được phổ biến đến người xem từ đủ 18 tuổi trở lên; loại T16: Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 16 tuổi trở lên; loại T13: Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 13 tuổi trở lên; Loại K: Phim được phổ biến đến người xem dưới 13 tuổi với điều kiện xem cùng cha, mẹ hoặc người giám hộ; Loại C: Phim không được phép phổ biến.
Các yếu tố khác bao gồm sự linh hoạt, khả năng mở rộng, tốc độ nhanh nhạy của các hệ thống đám mây so với hệ thống tại chỗ. Như chúng ta thường thấy trong thực tế, hệ thống viễn thông đối mặt với những lúc cao điểm cả về vận hành lẫn lưu trữ dữ liệu. Chẳng hạn, nó xảy ra vào các dịp lễ Tết hay sự kiện lớn. Trong phần lớn thời gian, hoạt động thấp hơn nhiều. Vì vậy, các hệ thống tại chỗ phải được cấu hình để chống chọi với những lúc cao điểm, cần tới nhiều máy chủ trị giá hàng tỷ USD nhưng lại không dùng đến vào ngày thường. Khi triển khai trên đám mây, dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu, tự động điều chỉnh quy mô một cách linh hoạt sẽ giữ chi phí thấp vào ngày thường nhưng vẫn đảm bảo đủ năng lực cho ngày cao điểm.
Xu hướng ứng dụng đám mây của các nhà mạng
Công bằng mà nói các nhà mạng không xa lạ với điện toán đám mây. Bước chuyển dịch lớn đầu tiên “lên mây” là vào năm 2012. Một số hãng viễn thông lớn như AT&T, Orange, Telecom Italia, Deutsche Telecom và Telefonia đã giới thiệu mô hình ảo hóa chức năng mạng (NFV) và dịch chuyển từ mạng vật lý thuận túy sang chức năng mạng ảo (VNF) để tự động hóa một số phần trong hạ tầng.
Chức năng mạng cloud-native (CNF) về cơ bản mang lại cách thức cung cấp chức năng mạng và cấu hình VNF mới linh hoạt hơn. Dường như, chúng cũng tạo ra giải pháp tốt hơn khi chuyển sang 5G. Theo Analysys Mason, các nhà cung cấp dịch vụ di động (CSP) sẽ chi 114 tỷ USD cho đám mây (bao gồm chức năng đám mây, phần mềm đám mây, phần cứng, dịch vụ liên quan) từ năm 2019 đến năm 2025. Vài năm tới sẽ ghi nhận sự chuyển dịch lớn của nhà mạng “lên mây”, đồng nghĩa, họ sẽ tập trung tốt hơn vào dịch vụ thiết yếu thay vì công nghệ thông tin, cập nhật máy chủ hay bảo trì.
Lợi ích của đám mây với nhà mạng gói gọn trong ba điểm: giảm chi phí vận hành; nâng hiệu quả trung tâm dữ liệu; độc lập về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản khiến doanh nghiệp viễn thông chần chừ. Đầu tiên, đó là thiếu kỹ năng và chuyên gia nội bộ. Các phòng ban trong công ty hiểu biết hạn chế về ứng dụng đám mây và chiến lược “lên mây”, vì vậy họ phải tìm tới nhà cung cấp bên ngoài để lấp đầy chỗ trống. Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đám mây cũng là vấn đề đau đầu không kém. Ngày nay, có nhiều lựa chọn khác nhau, phổ biến nhất là Microsoft Azure, Amazon Web Services, GCP, Oracle, IBM. Các chuyên gia sẽ giúp nhà mạng thực hiện các dự án lớn liên quan đến tích hợp đám mây.
Một vấn đề khác là bảo mật và quyền riêng tư. Lưu trữ dữ liệu mở và không được mã hóa đúng cách, đặc biệt tại những nước không có trung tâm dữ liệu địa phương là khá rủi ro xét về tính tuân thủ pháp lý. Các hệ thống vẫn bị xem là dễ bị tấn công. Đám mây và công nghệ liên quan phát triển nhanh chóng, khoảng cách giữa dịch vụ đám mây và hệ thống cũ tạo ra lỗ hổng mà tội phạm mạng có thể khai thác.
Cuối cùng, rào cản lớn ngăn nhà mạng ứng dụng đám mây là thiếu lòng tin. Nhà mạng vẫn chưa chắc chắn đám mây có hiệu quả nhiều hơn hệ thống tại chỗ về tiết kiệm chi phí hay không. Có sự hoài nghi lớn rằng chi phí của hệ thống đám mây sẽ nhỏ hơn tổng chi phí sở hữu một hệ thống tại chỗ.
Cách nào để vượt chướng ngại vật?
Điều đầu tiên nhà mạng phải làm là phát triển đội ngũ chuyên gia nội bộ với sự giúp sức của các hãng công nghệ thông tin hàng đầu. Họ có thể tìm đến bên thứ ba để triển khai hệ thống và giải pháp nhanh chóng, nâng cao năng lực và chuyên môn.
Bằng cách này, doanh nghiệp viễn thông sẽ học hỏi kinh nghiệm từ các công ty công nghệ thông tin, hiểu về giải pháp đám mây, tích lũy kiến thức chuyên môn và duy trì tất cả vai trò quan trọng – kiến trúc sư, quản lý dự án, kiến trúc bảo mật – trong công ty.
Đối với chướng ngại thương mại và chi phí, họ có thể vượt qua bằng các dự án PoC (proof of concept – chứng minh tính khả thi và thực tiễn của ý tưởng hoặc phương pháp nào đó). Nhà mạng sẽ sử dụng dữ liệu mẫu hoặc tổng hợp để xem mất bao nhiêu chi phí để triển khai hệ thống trên đám mây, sau đó so sánh với chi phí triển khai tại chỗ tại trung tâm dữ liệu riêng để tìm ra giải pháp nào tiết kiệm hơn. Các dự án PoC khá hữu ích vì cung cấp bài học về khấu trừ chi phí đám mây sau quá trình tích hợp.
Một giải pháp nữa là tạo ra mối quan hệ gần gũi giữa nhà mạng và doanh nghiệp công nghệ thông tin, nhà cung cấp dịch vụ đám mây. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ đám mây sẽ xem nhà mạng là đối tác chiến lươc, đưa ra các mức chiết khấu hấp dẫn và cố vấn để triển khai dự án đám mây.
Về vấn đề dữ liệu cá nhân, các vấn đề pháp lý là chướng ngại lớn khi ứng dụng đám mây tại các nước chưa có trung tâm dữ liệu địa phương. Trong tình thế này, nhà mạng đã bắt đầu tích hợp các giải pháp ẩn danh dữ liệu để bảo vệ thông tin nhạy cảm và thông tin cá nhân của thuê bao. Về cơ bản, nhà mạng tải dữ liệu theo định dạng mã hóa, giảm nguy cơ bị lộ dữ liệu mà vẫn tuân thủ quy định.
Điện toán đám mây có tác động quan trọng đến doanh thu và ngân sách của các nhà mạng thế giới. Nó đã chứng minh tính hiệu quả, tiết kiệm, linh hoạt để lưu trữ và làm việc với dữ liệu. Nhờ sự hỗ trợ của các nhà cung cấp dịch vụ đám mây, nhà mạng có thể tăng cường mức độ phổ biến của các dịch vụ, mở rộng sản phẩm và cải thiện hiệu suất kinh doanh nói chung.
Du Lam
Đón sóng dịch chuyển “đa đám mây”, doanh nghiệp Việt cần chớp thời cơ
Khi việc sử dụng Cloud trên thế giới đã đạt đến mức độ khai thác “sâu và rộng”, thì Multi-Cloud (đa đám mây) sẽ là bước chuyển dịch bứt phá giúp doanh nghiệp nâng cao tiềm lực cạnh tranh trong cuộc chiến điện toán đám mây.