Làm sách giáo khoa mỗi năm lỗ 40 tỷ đồng
Bộ GD-ĐT kiểm tra việc in và phát hành sách giáo khoa
TP.HCM cam go viết sách giáo khoa mới
Thông tin này được đưa ra tại phiên họp sáng nay, ngày 25/9 của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khi báo cáo kết quả khảo sát bước đầu về một số nội dung trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành SGK giáo dục phổ thông giai đoạn 2012 - 2017.
Trước đó, Ủy ban đã đi khảo sát thực tế tại Hà Nội, TP.HCM và Lâm Đồng; tham vấn các chuyên gia và nhận được báo cáo của 41 tỉnh thành về vấn đề này.
Quá trình khảo sát việc xuất bản SGK (không bao gồm các ấn phẩm liên quan như sách tham khảo) tập trung vào 2 vấn đề lớn: hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước còn chồng chéo và việc quy định Bộ GD-ĐT chịu trách nhiệm chính trong biên soạn, in ấn và phát hành SGK liên quan đến cơ quan xuất bản của Bộ là NXBGDVN.
![]() |
(Ảnh: Lê Anh Dũng) |
In ấn khép kín, in nối bản tinh vi
Báo cáo của Ủy ban cho hay: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXB GDVN) tổ chức in SGK theo 2 hình thức: In gia công (NXB GDVN giao kế hoạch cho các nhà in nội bộ có góp vốn của NXB nhưng không được tham gia đấu thầu theo luật) và in đấu thầu rộng rãi toàn quốc.
Tuy nhiên hoạt động in và phát hành SGK còn tồn tại những hạn chế như: Việc in SGK chỉ được đấu thầu rộng rãi sau khi đã trừ sản lượng giao cho các đơn vị in nội bộ của NXB GDVN và là những tên sách có số lượng in thấp. Việc in ấn khép kín nên tính cạnh tranh chưa cao, dẫn đến hạn chế về chất lượng, khó giảm giá thành, chưa khuyến khích việc đầu tư phát triển ngành in.
Bên cạnh đó, tình trạng in lậu, in nối bản SGK ngày càng lan rộng, tinh vi và phức tạp, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước và người sử dụng trong phân biệt thật, giả, phát hiện vi phạm; ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tác giả, của nhà xuất bản và người tiêu dùng. Chưa kể, SGK in lậu chất lượng kém, gây khó khăn cho học sinh trong quá trình học.
Quá trình khảo sát cho thấy, quy định về thẩm quyền của Bộ GD-ĐT trong việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành SGK, giáo trình tại điều 99 Luật Giáo dục hiện hành được cho là nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền trong hoạt động in, xuất bản, phát hành làm cho hoạt động này thiếu tính cạnh tranh, công bằng, ảnh hưởng đến chất lượng, giá thành, gây bức xúc dư luận xã hội. Mặc dù sau này đã có Luật xuất bản 2012 nhưng chưa đủ để điều chỉnh khắc phục những bất cập trên.
Các quy định về định giá, điều chỉnh giá bán lẻ xuất bản phẩm chưa thống nhất làm ảnh hưởng đến tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm kinh doanh của NXB.
Quy định chế tài xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động xuất bản in, phát hành còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu ngăn chặn tình trạng vi phạm ngày càng tăng và tinh vi hiện nay.
Phát hành cồng kềnh, chiết khấu khoảng 250 tỉ đồng
Báo cáo cho thấy, một trong những điểm hạn chế của hoạt động này là hệ thống phát hành SGK còn cồng kềnh, quy trình phát hành chưa thật hợp lý do phải trải qua nhiều khâu trung gian.
Là một trong những thành viên trực tiếp tham gia khảo sát quá trình xuất bản sách, ông Phan Viết Lượng (Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội) nhìn nhận, đây chính là một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí SGK.
Cụ thể, SGK được in tại hơn 90 cơ sở trên 63 tỉnh thành trong cả nước phải chuyển về nhập kho, sau đó chuyển đến các Công ty cổ phần sách và thiết bị giáo dục tại các miền rồi mới chuyển về các Công ty phát hành sách địa phương; từ đó sẽ bắt đầu chuyển tới các cơ sở giáo dục hoặc đại lý. Như vậy, sau khi qua nhiều khâu trung gian, chi phí vận chuyển sách cũng tăng lên.
Bên cạnh đó, dù qua hình thức nào NXB cũng sẽ thực hiện việc chiết khấu. Theo báo cáo, mức chi chiết khấu chi cho phát hành SGK lên tới 250 tỷ đồng/ năm (tương đương với 25% doanh thu hàng năm 1.000 tỷ đồng).
Theo Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, trong nhiều năm qua, tình trạng phần lớn SGK chỉ sử dụng 1 lần đã dẫn tới việc SGK thay mới với số lượng hàng năm lớn, gây lãng phí ngân sách nhà nước, tăng chi trả cho người dân, gây bức xúc xã hội. Nguyên nhân của việc này là do việc biên soạn, thiết kế SGK chưa hợp lý, đưa các dạng bài tập trắc nghiệm và các dạng bài tập khác vào sách....
Sách thí điểm giá cao, năm nào cũng sửa
Bà Hoàng Thị Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho hay, trong nhiều năm qua ngoài bộ SGK 2000 do Bộ GD-ĐT in, biên soạn, phát hành, còn có một số sách thực nghiệm, tài liệu thí điểm cũng do NXB GDVN in, phát hành đang sử dụng trên cả nước, trong đó có bộ sách mô hình giáo dục mới VNEN và tài liệu Tiếng việt 1- Công nghệ Giáo dục (GDCN).
Qua khảo sát, bộ sách VNEN và tài liệu Tiếng Việt 1-GDCN có giá bán cao, sản lượng in, hàng năm, doanh thu hàng năm tăng cao, chỉnh sửa và thay mới nhiều. Hai bộ sách này do NXB GDVN xuất bản, phát hành.
Năm 2017 sản lượng in, phát hành tài liệu Tiếng Việt lớp 1- CNGD khoảng 5 triệu bản, tăng gần 13 lần so với năm 2012. Sách VNEN là 10 triệu bản, tăng gấp 5 lần so với năm 2014. Doanh thu từ sách VNEN năm 2017 đạt khoảng hơn 300 tỷ đồng/năm, tương đương 1/3 doanh thu từ SGK giáo dục phổ thông 2000.
Giá bán một bộ VNEN cao gấp 4 lần một bộ sách của chương trình 2000 đối với sách lớp 3 và lớp 4; gấp 3 lần đối với 5, 6, 7.
Cùng do NXB GDVN xuất bản, in và phát hành, tuy nhiên khác với SGK đại trà (chương trình 2000), sách VNEN và tài liệu Tiếng Việt 1 GDCN trong giai đoạn 2012-2017 không được bán trên thị trường mà được phân phối bởi các công ty con và công ty thành viên của NXB GDVN thông qua Sở GD-ĐT các tỉnh, thành phố, Phòng GD-ĐT huyện, thị xã, các trường tiểu học, THCS trên cơ sở rà soát nhu cầu sử dụng hàng năm.
Sách giáo khoa mới của Bộ sẽ khắc phục hạn chế hiện tại
Cũng trong trưa 25/9, Bộ GD-ĐTđã có báo cáo tiếp thu, giải trình một số nội dung liên quan việc thực hiện chính sách, pháp luật về xuất bản, in, phát hành SGK giáo dục phổ thông giai đoạn 2012-2017.
Bộ GD-ĐT cho hay bộ SGK theo chương trình giáo dục phổ thông mới do Bộ chủ trì tổ chức biên soạn sẽ bảo đảm khắc phục triệt để những hạn chế hiện nay.
Bộ cũng đang tiến hành tổng kết, đánh giá việc biên soạn, xuất bản, phát hành và sử dụng SGK, bao gồm sách Hướng dẫn học theo mô hình VNEN, sách Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục để rút kinh nghiệm trong việc triển khai chương trình, SGK mới.
Bộ GD-ĐT sẽ triển khai tổng kết đánh giá việc thí điểm chuyển NXB Giáo dục Việt Nam sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của NXB này trong tổng thể ngành xuất bản.
Giá cả thị trường nhiều thay đổi, giá SGK vẫn giữ nguyên
Do tính chất đặc thù của việc xuất bản, phát hành SGK nên NXB Giáo dục Việt Nam không được tự quyết định giá bìa SGK. Theo quy định hiện hành thì sách giáo khoa là mặt hàng được quản lí giá bởi Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá).
Theo Bộ GD-ĐT, từ năm 2011 đến nay, dù giá cả thị trường có nhiều thay đổi, giá nguyên vật liệu làm sách tăng lên nhiều nhưng giá SGK vẫn giữ nguyên.
Việc NXB GDVN tổ chức đấu thầu để lựa chọn các công ty in, phát hành SGK thông qua các công ty cổ phần về thực chất là lựa chọn những công ty đủ mạnh, có khả năng in SGK với chất lượng tốt, giá thành hạ, phát hành SGK ở các địa phương để giảm chi phí vận chuyển (sách in ở khu vực nào cung cấp cho khu vực đó, không phải "chuyển về nhập kho, sau đó chuyển đến các công ty cổ phần sách và thiết bị tại các miền, rồi mới chuyển về các công ty phát hành sách địa phương" như được phản ánh), bảo đảm không bị lỗ hoặc lỗ ít trong bối cảnh giá nguyên vật liệu, nhân công tăng theo giá cả thị trường nhưng giá sách giáo khoa không thay đổi.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng, tăng tỉ lệ SGK được sử dụng lại nhiều lần, ngày 24/9/2018, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã ban hành Chỉ thị số 3798/CT-BGDĐT về việc sử dụng SGK và sách tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông.
Bộ Giáo dục giải thích SGK VNEN giá cao
Cũng trong báo cáo của Bộ GD-ĐT, sách Hướng dẫn học theo mô hình VNEN được biên soạn theo Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Học sinh sử dụng sách hướng dẫn học theo mô hình VNEN thay cho SGK hiện hành, trừ các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục chỉ biên soạn sách "Hoạt động giáo dục" dành cho giáo viên để tổ chức hoạt động học cho học sinh.
Đối với các môn Âm nhạc, Mỹ thuật học sinh vẫn sử dụng sách giáo khoa hiện hành để thực hiện các nhiệm vụ học tập do giáo viên giao.
Các bài học trong sách Hướng dẫn học theo mô hình VNEN được thiết kế thành các hoạt động học để giáo viên hướng dẫn học sinh tự lực nghiên cứu để tiếp nhận và vận dụng kiến thức, dành nhiều thời gian trên lớp để tổ chức cho học sinh thực hành, báo cáo, thảo luận, phát triển năng lực. Do vậy, sách Hướng dẫn học có số trang nhiều hơn SGK thông thường, được in 4 màu, khổ sách 19x27cm, chủng loại giấy in tốt hơn,… (SGK thông thường khổ sách 17x24cm) nên có giá cao hơn SGK thông thường khoảng 1,5-1,6 lần. Giá sách Hướng dẫn học theo mô hình VNEN cũng do Bộ Tài chính quản lí như đối với SGK.
Phát hành thông qua nhà trường: Lo ảnh hưởng tới sự lựa chọn của học sinh
| ||
Ông Lượng bày tỏ lo ngại với hình thức phát hành thông qua nhà trường có thể phát sinh những mặt trái: “Nhà trường có thể vì chiết khấu, lợi nhuận mà chạy theo số lượng. Việc chiết khấu này cũng có thể ảnh hưởng tới sự lựa chọn SGK của học sinh. Ví dụ, học sinh muốn sử dụng sách này trong khi nhà trường lại phát hành loại sách khác khiến học sinh buộc phải theo. Ông Lượng cho hay, khi thực hiện “một chương trình, nhiều bộ SGK” cũng hưa thể khẳng định giá SGK có giảm hay không. Nhưng chắc chắn trách nhiệm của nhà nước cần tăng cường quản lý hơn về giá sách và xem đó là loại hàng kinh doanh có điều kiện, nằm trong tầm kiểm soát. “Trong khi các nước miễn SGK cho học sinh còn mình chưa miễn được, rõ ràng về phía Nhà nước phải có sự kiểm soát chặt chẽ. Thậm chí có những vùng nhà nước cần hỗ trợ đặc biệt như vùng sâu vùng xa để đảm bảo điều kiện cho các cháu đến trường”. Ông Lượng cũng nói: Nếu bản quyền về SGK được sử dụng, tạo điều kiện cho các nhà xuất bản SGK tiếp cận bản thảo ấy thì việc tổ chức đấu thầu sẽ tập trung hơn. Khi đó, các cơ sở in có thể đổi mới công nghệ, được lựa chọn nguyên liệu đầu vào, quy trình tổ chức in xuất bản trở nên chuyên nghiệp, hợp lý, không làm tăng chi phí trung gian. Chất lượng SGK nhờ vậy cũng sẽ hấp dẫn về nội dung, đẹp về hình thức. Nguyễn Thảo
|
Thúy Nga - Lê Huyền - Thanh Hùng
Đại diện Sở GD-ĐT TP.HCM cho hay phía Sở và NXB giáo dục Việt Nam đã có những cuộc đấu tranh "khủng khiếp" để giữ đội ngũ viết sách của mình, đặc biệt TP.HCM nắm quyền phản biện nên sẽ làm tới cùng để nội dung sách tốt nhất.
" alt=""/>Chiết khấu phát hành sách giáo khoa khoảng 250 tỷ đồngTại hội nghị triển khai công tác thư viện các trường phổ thông năm học 2018 – 2019, bà Bùi Thị Minh Nga, Phó Trưởng phòng Giáo dục phổ thông (Sở GD-ĐT Hà Nội) báo cáo tổng kết công tác thư viện trường học năm học vừa qua và chỉ ra những tồn tại.
Theo bà Nga, ở nhiều trường trên địa bàn Hà Nội, cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó khăn như diện tích thư viện quá nhỏ, tường thấm dột, nóng, hệ thống thiết bị nghe nhìn cũ, máy tính chậm. Cá biệt có trường thiếu phòng học nên lấy luôn thư viện làm lớp học cho học sinh.
Một số trường bố trí thư viện ở tầng cao, nơi khuất nẻo, không thu hút được học sinh.
Bên cạnh đó, nhiều nhân viên thư viện chưa chủ động trong việc tham mưu công tác quản lý thư viện cho Ban giám hiệu nên công tác quản lý còn lúng túng, khó chỉ đạo hoạt động thư viện hiệu quả dẫn đến tình trạng chi chưa đủ kinh phí cho thư viện (từ 2-3% định mức ngân sách chi thường xuyên).
“Từ đó dẫn đến chuyện chưa bổ sung được nhiều đầu sách tham khảo cho giáo viên và học sinh, sách nghiệp vụ cũng không phong phú. Nhiều trường thường chỉ tổ chức mua 1 đợt trong năm học nên không cập nhật được các sách, tài liệu mới; do đặc điểm địa lý xa trung tâm, công tác bổ sung tài liệu không phổ biến, không được cập nhật danh mục mới thường xuyên của các nhà xuất bản; cách bài trí chưa phù hợp dẫn đến không gian thư viện chưa cuốn hút giáo viên và học sinh,…”, bà Nga cho hay.
Một khó khăn khác là một số nhân viên từ các ngạch khác chuyển sang nên công tác xử lý nghiệp vụ chưa chuẩn, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động mang tính chuyên sâu, lan tỏa.
“Lúng túng trong việc xây dựng danh mục tài liệu theo môn loại/giá sách, gây khó khăn cho việc tìm kiếm tài liệu”, bà Nga đưa dẫn chứng.
Thậm chí, có các trường đăng ký lại danh hiệu nhưng khi đoàn công tác đi kiểm tra xác suất nhận thấy hoạt động duy trì còn hạn chế, mức đầu tư gần như dừng lại.
Nhìn chung, theo đánh giá của Sở GD-ĐT Hà Nội hoạt động thư viện trường học của khối THPT chưa thực sự hiệu quả như khối Tiểu học và THCS.
Mức hỗ trợ tiền tiết thư viện cho nhân viện thư viện so với giáo viên đứng tiết buổi 2 còn thấp.
![]() |
Ảnh minh họa: Thanh Hùng. |
Để khắc phục những điều này trong năm học 2018-2019, Sở GD-ĐT Hà Nội yêu cầu các đơn vị tích cực xây dựng nguồn tài nguyên trong thư viện, thường xuyên bổ sung tài liệu, đảm bảo chất lượng và số lượng, phong phú về chủng loại, cân đối về thành phần, với các loại hình tài liệu truyền thống, tài liệu điện tử, kho học liệu phong phú, phù hợp từng cấp học.
Sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn kinh phí cho công tác thư viện (đầu tư cho thư viện và tổ chức các hoạt động thư viện từ ngân sách và nguồn xã hội hóa đảm bảo từ 2% đến 3% định mức ngân sách thành phố cấp/1 học sinh) nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho phát triển văn hóa đọc trong nhà trường.
Ngoài ra, bố trí thời khóa biểu để học sinh học 2 buổi/ngày có ít nhất 1 tiết thư viện/1 tuần. Học sinh học 1 buổi/ngày được tiếp cận dễ dàng với các nguồn tài liệu có trong thư viện vào đầu và cuối buổi học, giờ ra chơi.
Giáo viên cần tích cực đọc sách báo, tài liệu
Sở cũng yêu cầu đổi mới cách thức tổ chức và hoạt động thư viện nhằm tạo môi trường thuận lợi giúp học sinh tiếp cận thường xuyên với sách bằng nhiều hình thức phục vụ, phù hợp với điều kiện của các nhà trường như: thư viện lưu động, túi/giỏ sách lưu động, thư viện lớp, thư viện xanh, xây dựng thư viện thân thiện với các góc hoạt động hiệu quả, phục vụ đọc tại chỗ và mượn về nhà.
Đổi mới hình thức và phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy năng lực, tận dụng các nguồn thông tin ngoài SGK, nhất là thông tin từ sách báo, từ nguồn tài liệu trong thư viện để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích học sinh đọc các tài liệu in và tài liệu kỹ thuật số, rèn luyện kỹ năng đọc, năng lực học tập suốt đời. Giáo viên tích cực đọc sách báo, tài liệu, làm gương về tinh thần tự học và sáng tạo để tăng cường hướng dẫn và tạo điều kiện cho học sinh đọc sách.
Thành lập các câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, câu lạc bộ yêu sách, STEM... với tổ chức linh hoạt, chương trình và hình thức hoạt động đa dạng, phù hợp với điều kiện của nhà trường. Quan tâm đánh giá học sinh thông qua các dự án học tập, sản phẩm nghiên cứu khoa học, kĩ thuật... thay cho các bài kiểm tra.
Phó Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội Phạm Xuân Tiến lưu ý các đơn vị trường học cần bố trí thư viện ở vị trí thuận lợi; mở rộng không gian thư viện và tổ chức các hình thức thư viện lưu động giúp người đọc tiếp cận với sách dễ dàng. "Cần tránh tình trạng không đầu tư và hoạt động thư viện kém hiệu quả sau khi được công nhận danh hiệu thư viện".
Thanh Hùng
Cơ sở vật chất hiện đại với phong cách thiết kế kiến trúc độc đáo, thư viện của Trường ĐH Kinh tế quốc dân không chỉ là chỗ học tập lý tưởng mà còn thừa đủ tiêu chuẩn một điểm check-in của các bạn trẻ.
" alt=""/>Nhiều trường chưa chi đủ kinh phí định mức được đầu tư cho thư việnHoặc những đối tượng này lập fanpage trên mạng xã hội để mạo danh ngân hàng/tổ chức cung cấp dịch vụ Ví điện tử. Các fanpage thường sử dụng logo, hình ảnh và các bài viết được sao chép từ fanpage chính thức. Đối tượng lừa đảo tiếp cận khách hàng để tư vấn sản phẩm dịch vụ và yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin cá nhân, công việc, thu nhập… để phục vụ mục đích gian lận
Đối tượng giả mạo người thân, bạn bè nhờ khách hàng chuyển tiền. Chúng lừa đảo mạo danh là nhân viên bưu điện thông báo khách hàng bị nợ cước viễn thông, hoặc khách hàng có bưu kiện, yêu cầu phải chuyển tiền để thanh toán cước viễn thông hoặc chuyển tiền cước phí vận chuyển bưu kiện hoặc cước lưu kho…
Các chuyên gia dự báo, nguy cơ mất an toàn thông tin đến từ các thiết bị có kết nối Internet sẽ tiếp tục gia tăng, đặc biệt trong hạ tầng giao thông, tài chính ngân hàng và một số hệ thống điều khiển.
Rất cần sự chủ động từ phía khách hàng là người trực tiếp sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử, vì vậy mỗi người phải chú ý xem xét có những điểm lạ ở máy rút tiền, máy quẹt thẻ hay không?
Khi sử dụng các ví điện tử, cổng thanh toán điện tử, Internet Banking, người sử dụng cần chú ý tới thiết bị của mình có cài chương trình diệt virus, bảo mật, cần nâng cao cảnh giác không ấn vào đường link lạ.
Một điểm lưu ý đặc biệt là cần thay đổi mật khẩu thường xuyên, ít nhất 2 tháng/lần. Mật khẩu là giải pháp xác thực được sử dụng nhiều nhất hiện nay, nhưng ý thức sử dụng mật khẩu của người dùng tại Việt Nam chưa cao. Việc tùy tiện nhập thông tin tài khoản vào các website, đường link lạ hay sử dụng chung một mật khẩu cho nhiều tài khoản là những thói quen người dùng phải thay đổi để đảm bảo an toàn.
Bên cạnh đó, người sử dụng nên cảnh giác, không sử dụng mạng công cộng để thanh toán. Nếu bắt buộc phải truy cập thông qua một mạng công cộng, hãy kết nối qua một mạng ảo (VPN) nhằm hạn chế rủi ro đánh cắp thông tin.
Ngoài ra, việc đăng ký dịch vụ tin nhắn thông báo số dư là giải pháp hữu hiệu để quản lý tài khoản vì bất kỳ giao dịch nào phát sinh đều gửi tin nhắn thông báo cho chủ thẻ.Hiện có rất nhiều chủ thẻ không đăng ký dịch vụ này nên không hề biết khi bị rút trộm tiền để có các hành động ngăn chặn kịp thời.
Tội phạm sử dụng công nghệ cao đặc biệt gia tăng trong bối cảnh công nghệ thông tin và kỹ thuật số phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam đang lơ là, thiếu cảnh giác trong việc bảo mật hệ thống an ninh mạng, đây sẽ là khe hở để tội phạm công nghệ cao lợi dụng để tấn công.
Về phía các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán điện tử và các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cần tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử mà đặc biệt là thanh toán thẻ. Phải kiểm tra và đánh giá tổng thể công tác an ninh mạng, an ninh thanh toán điện tử thường xuyên và định kỳ nhằm tìm ra các lỗ hổng và nguy cơ một cách kịp thời để có biện pháp khắc phục. Cần xây dựng quy trình quản lý rủi ro cho hệ thống thanh toán tích hợp và hiệu quả để phát hiện, phân loại, xử lý và phòng tránh rủi ro có hiệu quả ở tất cả các khâu trong quá trình giao dịch thanh toán.
Các ngân hàng và tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử phải quan tâm sát sao hơn nữa đến việc thường xuyên thông tin cập nhật những hình thức lừa đảo đến khách hàng, cũng như đưa ra cảnh báo đề phòng, khuyến cáo khách hàng tăng tính bảo mật thông tin trong thanh toán.
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là quy định liên quan đến hoạt động quản lý rủi ro thanh toán; nghiên cứu ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thanh toán điện tử, thanh toán thẻ; các văn bản quy phạm pháp luật về an ninh, an toàn, bảo mật và những biện pháp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh toán điện tử, thanh toán thẻ. Đẩy mạnh hoạt động giám sát đối với các loại hình, phương tiện, hệ thống thanh toán điện tử mới tại Việt Nam.
" alt=""/>Hạn chế rủi ro khi thanh toán điện tử bằng cách nào?