- Mấu chốt của vụ án này là hồ sơ gốc của nghiên cứu sinh (NCS) Hoàng Xuân Quế không được Bộ GD-ĐT đưa ra xem xét mà lại đi thu thập 3 cuốn luận án ở thư viện để kết luận ông Quế sao chép luận án của người khác.
Đặc biệt, cuốn luận án ông Quế bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước năm 2003, các bản nhận xét phản biện kín của các nhà khoa học do Bộ trưởng ủy quyền thẩm định chất lượng luận án, Bản giải trình chỉnh sửa luận án có xác nhận của Giáo viên hướng dẫn, Bản luận án hoàn chỉnh đã chỉnh sửa theo ý kiến của các nhà phản biện kín… đều không có.
Tôi cho rằng, nếu hồ sơ gốc còn lưu tại Bộ GD-ĐT thì khi có tố cáo chỉ cần cho lập biên bản và rút hồ sơ của ông Hoàng Xuân Quế cũng như ông Mai Thanh Quế để đối chiếu là có thể kết luận được.
Tại Tòa án, ông Quế luôn yêu cầu bộ đưa hồ sơ gốc của ông Quế ra để làm căn cứ so sánh, đối chiếu nhưng không có!
Còn 3 cuốn luận án tiến sĩ do Bộ GD-ĐT thu thập không tuân thủ đúng quy định do chính Bộ GĐ-ĐT ban hành đối với việc nộp luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh tại thời điểm năm 2003 cũng như không đúng với thực tế ông Quế giao nộp như đã thể hiện tại Biên lai giao nhận luận án (không có chữ ký cam đoan của tác giả, không có tài liệu bổ sung nộp cùng luận án sau khi bảo về xong, mất sổ thư viện có chữ ký của nghiên cứu sinh…).
Phía Bộ GD-ĐT cho rằng không có quy định về chữ ký của nghiên cứu sinh trong luận án tiến sĩ để giải thích cho việc sử dụng những cuốn luận án lưu không có chữ ký của ông Quế. Nhưng đây cũng là lý do để ông Quế khẳng định cuốn luận án tiến sĩ của ông Quế tại Thư viện Quốc gia, Trường ĐH Kinh tế quốc dân và Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM đã bị ai đó đánh tráo. Tại sao ông Quế không chấp nhận sự lý giải của phía Bộ GD-ĐT?
- Đối với cuốn thu thập tại thư viện Quốc gia, theo quy định tại tiểu mục 3.1 Mục III Hướng dẫn tổ chức đánh giá luận án tiến sĩ ban hành kèm theo quyết định số 8217/SĐH ngày 1/9/2000 của Bộ GD-ĐT hướng dẫn đánh giá luận án tiến sĩ, NCS phải nộp cho Thư viện quốc gia cuốn luận án (có chữ ký cam đoan của mình), kèm theo có các tài liệu sau: 1 bản tóm tắt luận án, 1 Quyết định thành lập hội đồng chấm luận án, 3 bản nhận xét của phản biện và 1 Quyết nghị của hội đồng chấm luận án, đều được đóng vào phần cuối luận án.
Không có việc tách rời để xác định mất hay thư viện không lưu giữ hoặc nghiên cứu sinh không nộp như Biên bản làm việc ngày 30/9/2013 của Tổ xác minh Thanh tra Bộ và Thư viện Quốc gia.
Hơn nữa, khẳng định của ông Quế phù hợp với nội dung tại Giấy biên nhận luận án ngày 5/11/2003 là Thư viện Quốc gia đã nhận của NCS 1 cuốn luận án (có chữ ký cam đoan của ông Quế), kèm theo có các tài liệu sau 1 bản tóm tắt luận án, 1 Quyết định thành lập hội đồng chấm luận án, 3 bản nhận xét của phản biện và 1 Quyết nghị của hội đồng chấm luận án.
Cuốn luận án thu thập tại Trường ĐH Kinh tế quốc dân mà Bộ thu thập không phải của ông Quế, vì tại Biên bản làm việc ngày 1/10/2013, Giám đốc thư viện và cán bộ chuyên trách thư viện của Nhà trường này khẳng định quy trình nhận luận án lưu thư viện năm 2002 - 2003 là: Thư viện thu luận án, phát phiếu nộp luận án cho người nộp, người nộp ký vào Sổ theo dõi của thư viện.
Đối chiếu cuốn luận án thu thập tại đây không có chứ ký của NCS Hoàng Xuân Quế. Ngoài ra, căn cứ để xác định cuốn luận án do ông Quế nộp phụ thuộc chữ ký của ông Quế tại Sổ theo dõi thư viện nhưng Lãnh đạo thư viện Nhà trường lại cho rằng không tìm thấy sổ ký nhận nộp của ông Quế vì sau nhiều lần chuyển kho bị thất lạc, thư viện chỉ con lưu Sổ theo dõi từ năm 2009 đến nay.
Đối với cuốn thu thập tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, theo quy chế đào tạo sau đại học thì Bộ có trách nhiệm lưu, quản lý luận án của NCS. Không có văn bản pháp lý nào quy định Bộ GD-ĐT được quyền không lưu giữ mà chuyển luận án cho thư viện các địa phương.
Cuốn thu thập tại Thư viện Tổng hợp TP.HCM cũng không có chữ ký cam đoan của NCS Hoàng Xuân Quế, không phải do ông Quế nộp, thư viện này không phải là nơi có quyền lưu giữ luận án của NCS Hoàng Xuân Quế theo quy định.
* Ai là người “đánh tráo”?
Sau khi bị tố cáo là “sao chép luận án”, ông Quế đã tự đi xin lại được 3 cuốn luận án tiến sỹ từ các giáo viên hướng dẫn và người phản biện. Những cuốn luận án tiến sỹ này có nội dung khác với những các cuốn lưu tại các thư viện. Cơ sở nào để khẳng định những bản luận án ông Quế tự nộp lại sau này là bản gốc?
- Do ông Quế có nghĩa vụ giải trình về nội dung tố cáo tại Bộ GD-ĐT nên phải thu thập tài liệu để chứng minh cho mình. Cả 3 cuốn luận án ông Quế nộp cho Bộ GD-ĐT đều là do các thành viên chấm luận án năm 2003 cho mượn và trước khi giao cho ông Quế thì người giao đã ký vào từng trang của luận án cũng như viết xác nhận, ký tên vào trang đầu của luận án.
- Luật sư của Bộ GD-ĐT cho rằng “Giả sử việc “đánh tráo” có thật, thì nó đã diễn ra ở cả 3 thư viện: Thư viện ĐH Kinh tế Quốc dân, Thư viện Quốc gia, và Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM. Điều này không thể xảy ra trong thực tế. Điều quan trọng nhất tôi muốn nhấn mạnh, nếu khẳng định cuốn luận án của mình bị “đánh tráo”, ông Quế phải có đơn tố cáo và phải có chứng cứ chứng minh cho tố cáo đó”. Quan điểm của bà như thế nào về nhận định này?
- Thư viện là nơi công cộng để phục vụ đông đảo bạn đọc, được tổ chức và hoạt động theo Pháp lệnh Thư viện, đó không phải là nơi có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ đào tạo của nghiên cứu sinh theo quy định. Luận án lưu tại thư viện không đúng như quy định giao nộp và biên lai giao nộp thì không đảm bảo tính truy nguyên nguồn gốc của tài liệu. Việc đánh tráo tài liệu vì mục đich xấu là có khả năng xảy ra.
Còn việc ông Quế có tố cáo thì phải dựa trên cơ sở xác định được người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật và có chứng cứ chứng minh. Cả 3 cuốn luận án mang danh Hoàng Xuân Quế do Bộ GD-ĐT thu thập cần được Tòa án xem xét, đánh giá chứng cứ và tuyên án thì từ đó mới có cơ sở để ông Quế xem xét và có biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Với giả thiết “đánh tráo” được đưa ra, luật sư có thể cho biết ông Quế có nhận định về khả năng ai là người đánh tráo, và đánh tráo nhằm mục đích gì không?
- Tôi không thể nhận định, kết luận gì về vấn đề này. Tuy nhiên, về phía ông Quế, tại phiên tòa sơ thẩm, đã liên tục khẳng định vụ việc phát sinh là do bị một nhóm cán bộ ở trường đại học nơi ông Quế công tác “đánh” vào thời điểm nhà trường sắp xếp công tác tổ chức cán bộ.
Tại sao luật sư cho rằng Quyết định 4674 được ban hành trên cơ sở phát sinh từ việc tố cáo nhưng người bị kiện vi phạm quy trình thụ lý, giải quyết đơn thư tố cáo và ra kết luận giải quyết tố cáo không đúng quy định của pháp luật?
- Trình tự giải quyết tố cáo được quy định tại Điều 18 Luật Tố cáo 2011 và Thông tư số 01 ngày 15/12/2009 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã nhận được đơn tố cáo do cả cơ quan báo chí và cả Đại biểu Quốc hội chuyển đến. Trong khi Bộ chưa thụ lý đơn và người tố cáo không có tài liệu chứng minh nội dung tố cáo nhưng Bộ đã triển khai giao Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hội đồng Chức danh Giáo sư ngành Kinh tế học và mời thêm A83 xác minh nội dung tố cáo từ tháng 6 và tháng 7/2013, nhưng đến giữa tháng 9/2013 mới bắt đầu ra quyết định thành lập Tổ xác minh tố cáo và tái thực hiện việc xác minh.
Đặc biệt, khi chưa có kết luận giải quyết tố cáo nhưng người tố cáo đã biết được nội dung ông Quế giải trình với Bộ cũng như kết quả xác minh của Trường ĐH Kinh tế quốc dân…
Tất cả những vi phạm này đều đã được chúng tôi phân tích kỹ lưỡng, viện dẫn quy định của pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm.
Xin cảm ơn bà.
Ngân Anh thực hiện
" alt="Luật sư ông Hoàng Xuân Quế phản biện luật sư Bộ Giáo dục" />Luật sư ông Hoàng Xuân Quế phản biện luật sư Bộ Giáo dục
“Những người trong đoàn cách ly dù không quen biết cũng dành sự quan tâm cho mẹ con tôi. Thấy tôi một mình cùng hai con xếp hàng, họ hỏi số phòng rồi lặng lẽ mang bánh trái để trước cửa. Vì không được gặp nhau nên họ chỉ gõ cửa rồi rời đi. Tình cảm của mọi người nơi đây khiến tôi rớm nước mắt vì cảm động”, Hồng Nhung xúc động chia sẻ.
Bé Tép vẫn giữ niềm vui và đam mê vẽ tranh trong những ngày cách ly.
Hồng Nhung cho biết, trước khi lên máy bay về nước, chị rất lo lắng, sợ các con sẽ mệt mỏi vì khi phải mặc bộ quần áo bảo hộ trên chuyến bay dài từ Mỹ về Việt Nam. Thế nhưng, các con của chị không hề khó chịu mà còn liên tục động viên mẹ.
Bé Tôm nói với mẹ Bống: "Mẹ phải nhìn vào mặt tích cực đi. Chúng ta may mắn vì hạ cánh buổi đêm đấy, nếu vào ban ngày, thời tiết còn nóng nữa. Mẹ, chúng ta sắp được về nhà".
“Hai cô cậu ấy truyền năng lượng cho tôi. Vì thế, một bà mẹ nhỏ nhắn mới có thể tự xoay xở được với hai cái đuôi và bốn chiếc va ly to đùng”, Hồng Nhung hạnh phúc khi kể về hai con.
Hồng Nhung cho rằng, việc cách ly tập trung ở doanh trại quân đội còn sướng hơn ở khách sạn. Bởi nếu như ở khách sạn, sẽ phải ở trong phòng suốt 14 ngày, chỉ được mở cửa mỗi lúc nhận cơm để sẵn ở hành lang. “Ở đây, chỉ cần mở cửa là đã thấy núi đồi, cây cối và tận hưởng không khí đồng quê thoáng mát. Điều kiện vật chất ở doanh trại quân đội tất nhiên không thể bằng khách sạn được, nhưng tình cảm mà ba mẹ con nhận được nơi đây khiến tôi thấy ấm lòng”.
Từ khi được nhận phòng, Hồng Nhung tự mình cọ rửa sạch sẽ để các con có chỗ nghỉ ngơi thật thoải mái. Yêu cầu đảm bảo an toàn, mọi người trong khu cách ly cũng không được trò chuyện hay gặp gỡ nhau. “Có một tin vui là cả 39 người trong đoàn đều đã âm tính lần một với Covid-19 lần 1. Vì thế, chúng tôi hy vọng mấy ngày tới có thể xuống sân đi bộ một chút cho thoáng”.
“Những người trong đoàn cách ly dù không quen biết cũng dành sự quan tâm cho mẹ con tôi. Thấy tôi một mình cùng hai con xếp hàng, họ hỏi số phòng rồi lặng lẽ mang bánh trái để trước cửa. Vì không được gặp nhau nên họ chỉ gõ cửa rồi rời đi. Tình cảm của mọi người nơi đây khiến tôi rớm nước mắt vì cảm động”, Hồng Nhung xúc động chia sẻ.
Các con nữ ca sĩ nhận nhiệm vụ đi đổ rác và rất thích công việc này.
Hai bé thấy thoải mái với không gian gần gũi với thiên nhiên của khu cách ly.
Nói về việc phải trải qua thời gian dài ảnh hưởng từ dịch Covid-19 trong suốt 5 tháng ở Mỹ, rồi những ngày được cách ly tại Việt Nam, ca sĩ Hồng Nhung trải lòng: “Sự trưởng thành từ thực tế, giúp xây dựng nhân cách và nhận thức về cuộc sống với nhiều cung bậc, và thử thách muôn màu... Sự gần gũi, chia sẻ trong khoảng thời gian dài giãn cách xã hội đầy lạ lùng làm con người ta đánh cảm thấy rõ hơn giá trị gia đình, biết quý những ngày sống, hoạt động bình thường, để ý giúp đỡ, thương cảm lẫn nhau…”
“Và trải nghiệm cách ly quốc dân cho gia đình Bống sống một thế giới khác hẳn, rèn luyện ý thức, nhận thức, mỗi cá nhân dù lớn hay nhỏ sẽ rút ra giải pháp, điều chỉnh hành vi... từ kinh nghiệm chung. Đây là trải nghiệm vô cùng quý báu và sẽ trở thành ký ức không bao giờ phai nhạt của gia đình chúng tôi”, chị chia sẻ thêm.
Về Việt Nam với mong muốn được trở lại sân khấu và gặp gỡ khán giả, tuy nhiên thời điểm này tại Việt Nam tiếp tục bùng phát dịch nên những show diễn dự định trong tháng 8 đều phải hủy. Thế nhưng nữ ca sĩ vẫn giữa tinh thần lạc quan “Rồi mọi chuyện sẽ tốt cả thôi”.
(Theo Dân Trí)
Minh Tú, Hồng Nhung và 2 con cách ly 14 ngày khi trở về Việt Nam
Chân dài của làng mẫu Việt trở về từ Bali (Indonesia), còn Hồng Nhung và 2 con trở về từ Mỹ đã có mặt tại Việt Nam sau nhiều tháng ở nước ngoài vì dịch Covid-19.
" alt="Hồng Nhung: “Cách ly quốc dân cho gia đình Bống sống một thế giới khác hẳn”" />
...[详细]
GS. Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội
- Thưa Giáo sư, ông cho biết tiếp cận của Hội thảo Việt Nam học lần này?
GS. Nguyễn Hữu Đức:Hội thảo quốc tế Việt Nam học luôn là diễn đàn của các nhà nghiên cứu Việt Nam ở khắp năm châu đến trình bày các nghiên cứu của mình về Việt Nam, là sự kết nối và phát triển mạng lưới các nhà nghiên cứu Việt Nam. Các hội thảo trước đây chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV). Nội dung của Hội thảo lần này được mở rộng hơn, tạo ra diễn đàn học thuật góp phần giải quyết các vấn đề đương đại của Việt Nam, từ vấn đề ngoại giao, hợp tác và hội nhập quốc tế, đến nguồn lực văn hóa; giáo dục và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao tri thức và công nghệ; kinh tế, sinh kế và biến đổi khí hậu… Càng ngày chúng ta càng hướng khoa học đến với thực tiễn, càng nhận thức rõ vai trò của khoa học - công nghệ và môi trường đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Chính vì thế, Hội thảo lần này không chỉ có sự tham gia của các nhà khoa học và các cơ sở học thuật mà còn có sự quan tâm của cả các Bộ ngành. Bên cạnh các kết quả về khoa học thuần túy, giúp Việt Nam hiểu rõ hơn về chính mình, Hội thảo cũng hướng đến những đóng góp trực tiếp đến việc hoạch định ra các chủ trương, chính sách cho các cấp lãnh đạo, quản lí của Việt Nam.
- Ngoài Việt Nam thì các đối tượng nghiên cứu về “đất nước học” và “khu vực học” như thế này có phổ biến trên thế giới hay không, thưa GS.?
Nghiên cứu đất nước, con người, giá trị và các tính chất hàm chứa của các quốc gia luôn là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học ở trên thế giới. Lĩnh vực nghiên cứu ngày có thể gọi chung là lĩnh vực “quốc học”. Trong các cơ sở dữ liệu quốc tế như ISI, Scopus… chỉ cần gõ tìm tên của một nước trong tên bài báo, tóm tắt hoặc từ khóa có thể tìm được ngay tất cả thông tin. Ví dụ như thử tìm kiếm theo từ khóa “Trung Quốc” hoặc “Nghiên cứu Trung Quốc” trong cơ sở dữ liệu Scopus có thể tìm được đến hơn 600.000 bài báo, bao gồm các nghiên cứu từ khoa học xã hội, khoa học nhân văn, kinh tế; khoa học tự nhiên, y học; công nghệ và môi trường… Tương tự đối với từ khóa “Thái Lan” cũng tìm được hơn 60.000 bài. Trong cơ sở dữ liệu này, có gần 40.000 bài nghiên cứu về Việt Nam. Như vậy, Việt Nam đã là một đối tượng nghiên cứu được các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm.
So sánh số lượng công bố quốc tế về nghiên cứu Việt Nam của các nước đối với tất cả các lĩnh vực KH&CN (nguồn Scopus)
- Số lượng thư tịch khoa học trên có thể phân tích theo rất nhiều chiều cạnh. GS quan tâm theo khía cạnh nào?
Bước đầu, tôi tạm có 3 nhận xét sau.
Thứ nhất, số thư tịch khoa học nghiên cứu về Trung Quốc và Thái Lan có sự tương đồng cao về một số xu thế, ví dụ như về tỷ lệ các bài nghiên cứu về KHXH&NV (đều chiếm khoảng 25%). Tỷ lệ này đối với Việt Nam là 36,8%. Có nghĩa là các nhà khoa học trên thế giới có quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề KHXH&NV của Việt Nam.
Thứ hai, việc triển khai các nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu về lĩnh vực “quốc học” chủ yếu là các kết quả nội sinh, do các nhà khoa học của nước đó thực hiện. 66% số lượng bài báo nghiên cứu về Trung Quốc do các học giả Trung Quốc thực hiện. Con số này đối với Thái Lan là 55%. Còn đối với Việt Nam, tỷ lệ này chỉ đạt 27,5%, tức là các nghiên cứu về Việt Nam được công bố quốc tế chủ yếu do các nhà khoa học nước ngoài thực hiện.
Thứ ba, trong 10 cơ sở nghiên cứu mạnh nhất về Trung Quốc thì tất cả đều là các viện nghiên cứu và trường đại học của Trung Quốc (và Hồng Kông). Đối với Thái Lan, 10 đơn vị nghiên cứu hàng đầu về Thái Lan cũng đều là các đơn vị quốc nội. Còn đối với Việt Nam thì ngược lại, trong top 10 các đơn vị nghiên cứu mạnh về Việt Nam chỉ có 2 cơ sở của Việt Nam. Đơn vị có nhiều kết quả nghiên cứu và công bố quốc tế về Việt Nam nhất cũng thuộc về nước ngoài.
- GS. vừa nhận xét về tỷ lệ các công bố quốc tế nghiên cứu về Việt Nam trong lĩnh vực KHXH&NV. GS. có thể phân tích thêm về các số liệu này?
Theo các tiếp cận chung vừa nêu cho tất cả các lĩnh vực KH&CN, cũng có thể đưa ra hai nhận xét sau đây cho riêng lĩnh vực KHXH&NV. Đó là, các nghiên cứu về khoa học nhân văn và kinh tế của Việt Nam chiếm tỉ trọng thấp hơn các nước khác. Thêm vào đó, đối với lĩnh vực KHXH&NV nói chung, trong top 10 cơ sở đào tạo và nghiên cứu Trung Quốc và Thái Lan có nhiều công bố nhất chỉ có một cơ sở bên ngoài (Đại học Quốc gia Singapore), còn 9 cơ sở còn lại đều là quốc nội. Đối với nghiên cứu Việt Nam, 8 cơ sở mạnh nhất là quốc tế, chỉ có 2 cơ sở trong nước có công bố đáng kể là ĐHQGHN và Đại học Kinh tế quốc dân. Đại học quốc gia Úc, Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Monash, Melbourne… là các cơ sở có nhiều nghiên cứu về Việt Nam. Đây là lý do mà ĐHQGHN muốn tăng cường kết nối, xây dựng mạng lưới các nhà nghiên cứu Việt Nam, phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam.
Top 10 cơ sở công bố nhiều nghiên cứu về Việt Nam trong lĩnh vực KHXH&NV (nguồn Scopus)
- Tình hình nghiên cứu Việt Nam trên thế giới trong lĩnh vực KHXH&NV có nhiều thay đổi không trong 30 năm đổi mới và 5 năm gần đây, thưa GS.?
Theo số liệu khảo sát thì bức tranh công bố quốc tế đối với các nghiên cứu về Việt Nam trong 30 năm đổi mới không khác bức tranh chung nhiều lắm. Nhưng tính riêng trong khoảng 5 năm trở lại đây tình hình có một vài chuyển biến quan trọng. Mặc dù số lượng công bố quốc tế còn khiêm tốn, nhưng xuất hiện trong top 10 các cơ sở nghiên cứu Việt Nam đã có nhiều hơn các trường đại học của Việt Nam, trong đó ĐHQGHN đã vươn lên đứng đầu và Trường Đại học Kinh tế quốc dân xếp thứ 3. Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận xu thể phát triển chung về nghiên cứu “quốc học”, đã vươn lên dẫn đầu và đang cố gắng trở thành “thánh địa” của nghiên cứu Việt Nam học. Chúng ta nghiên cứu Việt Nam để hỗ trợ cho sự phát triển của quốc gia, chứ không chỉ có các đồng nghiệp của ta nghiên cứu để tìm hiểu Việt Nam theo mục đích của họ.
Top 10 cơ sở công bố nhiều nghiên cứu về Việt Nam trong lĩnh vực KHXH&NV trong giai đoạn 2010-2016 (nguồn Scopus)
- Xin chúc mừng ĐHQGHN đã thành công bước đầu trong việc thực hiện sứ mệnh của người Việt. Thưa GS., trong thời gian tới ĐHQGHN có kế hoạch gì để thúc đẩy các nghiên cứu Việt Nam?
Bên cạnh việc thúc đẩy các nghiên cứu trong chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp ĐHQGHN về “Định vị và phát triển KHXH&NV Việt Nam”, để Việt Nam nói chung và ĐHQGHN nói riêng trở thành “thánh địa” của nghiên cứu Việt Nam, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển mạng lưới các nhà nghiên cứu Việt Nam học toàn cầu, quy tụ đội ngũ nghiên cứu Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực, chuyên môn khác nhau. Đặc biệt, cần phải xây dựng được một Trung tâm tư liệu nghiên cứu Việt Nam hiện đại và lớn nhất thế giới. Như đã nêu ở trên, tư liệu của thế giới viết về Việt Nam khá nhiều, đồng thời số tư liệu của Việt Nam bị thiên di đi khắp thế giới cũng rất lớn, từ châu Á, châu Âu đến cả châu Mỹ. Hệ thống tư liệu ấy cần được thu thập, quy tụ để kết hợp cùng với hệ thống tư liệu đang có trong nước hình thành một trung tâm phục vụ cho các nghiên cứu đầy đủ và toàn diện nhất về Việt Nam.
Xin trân trọng cảm ơn GS!
Ngọc Diệp
" alt="Thế giới quan tâm đến nghiên cứu Việt Nam như thế nào?" />
...[详细]
Hiện tại diễn viên Tùng Dương đang kết hợp uống thuốc và tập luyện thể dục theo phác đồ điều trị bệnh suy nhược thần kinh của bác sĩ.
- Cũng đã lâu khán giả không còn thấy Tùng Dương xuất hiện trên phim, có phải do chưa có vai diễn nào hấp dẫn được anh hay vì những mệt mỏi của cuộc sống đã làm anh vơi cạn đam mê với nghệ thuật?
Không phải đâu, thứ nhất là những năm gần đây tôi thích công việc viết kịch bản hơn là đóng phim và giờ tôi định hướng rõ ràng với mảng hậu trường này rồi.
Nếu được mời vào vai một nhân vật làm cho tôi thích thì tôi vẫn nhận lời như thường (cười) nhưng tôi vẫn chỉ thấy những dạng vai nhang nhác các nhân vật mà mình từng đóng nên giờ tôi vẫn viết kịch bản như các bạn thấy.
- Có phải vì không tìm được vai diễn mà mình thật sự thích thú nên anh chuyển sang làm biên kịch để có thể tự tạo ra nhân vật sở trường của mình?
Một nửa là như thế! Nghĩa là khi làm biên kịch tôi có thể sáng tạo ra những nhân vật theo ý mình trong khi đóng phim thì tôi phải diễn theo khuôn khổ của người biên kịch phim đó yêu cầu. Nôm na là khi viết kịch bản, tôi sẽ được thỏa sức phóng tác các nhân vật và câu chuyện theo cách của chính mình.
Mới đây, trong một bài phỏng vấn anh có tự nhận mình được nhiều người biết đến qua các vai phản diện, nhưng đối với anh đấy không phải thành công vì anh chưa bao giờ lên đến đỉnh vinh quang trong nghề, điều này nhiều người lại không cho là vậy, anh thấy sao?
Mọi người thường đồ rằng lên đến đỉnh vinh quang trong nghề diễn là phải đạt được một giải thưởng gì cao quý nhưng với tôi nó chỉ là hình thức. Bởi theo cá nhân tôi, thành công thực sự là lúc mình có 1 vai diễn mà khi ngồi xem lại, bản thân sẽ cảm thấy rất ưng ý.
Thế nhưng hầu như những nhân vật mà tôi đã từng đóng trong các bộ phim khi xem lại tự tôi đều thấy có nhiều cái thiếu sót và nhủ thầm tại sao khi đóng phim tôi không nghĩ ra, hoặc là trong khi nhập cảnh tôi lại không làm tròn vai như thế này, như thế kia được.
Có thể khán giả thì họ bảo ừ đóng như thế này được rồi, đạt rồi, thành công rồi. Thế nhưng bản thân tôi khi ngồi xem lại thì đúng là chưa có nhân vật nào có thể khiến tôi cảm thấy mình đã làm tròn vai thực sự.
Diễn viên Tùng Dương được nhiều người biết đến khi vào các vai phản diện trong phim.
- Diễn xuất không tự hài lòng, thế còn mảng biên kịch đang theo đuổi thì anh tự nhận xét thế nào?
Mảng miếng hậu trường này tôi lại khá thoả mãn và cảm thấy mình được trở về bản ngã. Ở đó tôi được tự do là mình, viết những kịch bản theo ý muốn, kể những câu chuyện theo cách riêng mà không phụ thuộc vào ai.
- Anh có thể bật mí một chút về những “đứa con tinh thần” khiến anh cảm thấy thỏa mãn chứ?
Tiết lộ một chút là tôi có “Những đóa quân tử lan” đã chiếu ti vi còn “Kẻ tàng hình” dài 44 tập sắp lên sóng.
Trong đó, “Kẻ tàng hình" là phim hình sự, nói về các thế lực ngầm trong xã hội, những băng đảng xã hội đen đội lốt doanh nghiệp, tập đoàn nổi tiếng lớn, suốt ngày đi làm từ thiện nhưng ẩn sâu bên trong là những hoạt động ngầm, có khi là làm ăn phi pháp, buôn ma túy, tranh giành thế lực, cạnh tranh nhau về thị trường. Rồi là thanh trừng nhau.
Tôi dám khẳng định “Kẻ tàng hình” là một trong những phim hiếm về truyền hình lấy những nhân vật phản diện làm trung tâm, tức là xoáy sâu đi phân tích về đời sống tâm lý cũng như đời sống 2 mặt của các thế lực mà người ta gọi là “giang hồ cổ cồn” và khắc họa rất sâu sắc về đời sống xã hội đen cũng như các thế lực ngầm.
- Hỏi đùa anh chút là thu nhập của biên kịch có khá hơn khi làm diễn viên không?
Thực ra bây giờ tôi chỉ chịu trách nhiệm nuôi 1 bé nên áp lực kinh tế cũng không quá nặng nề. Nếu như mà trời thương, sức khỏe cho phép, không bị ốm đau, không bị ngắt quãng bởi những cái trời ơi đất hỡi thì 1 năm tôi thong dong viết 1 bộ kịch bản dài tập thì cũng đủ trang trải cuộc sống được.
Ngoài ra tôi còn đi dạy diễn xuất nên cũng có thêm đồng ra đồng vào, với cuộc sống và nhu cầu cơ bản của hai bố con hiện tại thì thế là thoải mái rồi. Làm nghệ thuật, trừ khi là ca sĩ gặp thời chứ bình thường có ai giàu có đâu.
Diễn viên Tùng Dương sinh năm 1969 ở Hà Nội, anh từng là gương mặt quen thuộc với khán giả truyền hình với các vai phản diện trong một số bộ phim như Ban trong “Lãnh địa đen” (series Cảnh sát hình sự), “Chuyện phố phường”, “Dòng sông phẳng lặng”, “Khi đàn chim trở về”, “ Ngõ lỗ thủng, Nhà có nhiều cửa sổ”, “Hoa cỏ may”,..Đặc biệt Tùng Dương còn là một đạo diễn đầy tài năng cũng như là biên kịch của một số bộ phim truyền hình gồm “Sức mạnh huyền bí”, “Mùa bàng rụng trái”, “Kẻ tàng hình”,...
Năm 25 tuổi Tùng Dương kết hôn nhưng lại ly hôn sau thời gian ngắn chung sống. Người vợ thứ hai của anh chính là diễn viên Hoa Thúy. Năm 2007 anh kết hôn lần thứ ba...
Theo Tiền Phong
Diễn viên Tùng Dương ly hôn người vợ thứ ba
"Tôi và vợ chia tay vì những mâu thuẫn trong lối sống, khác biệt tính cách. Cả hai từng nghĩ vì các con để níu kéo nhưng không thành", Tùng Dương chia sẻ.
" alt="Diễn viên Tùng Dương sau ly hôn lần 3: ‘Con gái là động lực để tôi sống lạc quan hơn’" />
...[详细]