Mike DiNanno, cựu giám sát một số bộ phận Motorola từ năm 1984 tới 2003, kể lại: vào những năm 1990, khi làm việc với cả nghìn kỹ sư mạng Motorola, ông nhận thấy tất cả đều dùng điện thoại kỹ thuật số do kình địch Qualcomm làm ra. “Không có một chiếc điện thoại Motorola nào trong tòa nhà, ngay cả khi phía còn lại của công ty đang tham gia cuộc chiến “đẫm máu” kéo dài nhiều năm với Qualcomm”.
Phải mất một thời gian dài văn hóa làm việc “độc hại” mới cho thấy hậu quả của nó, chủ yếu vì bộ phận mạng di động vẫn ăn nên làm ra. Vào năm 1994, 60% điện thoại di động bán ra tại Mỹ là của Motorola. Bộ phận không dây đóng góp gần 65% doanh thu cả công ty.
Năm 1997, con trai Bob Galvin là Chris Galvin tiếp quản Motorola với di sản gồm 60 chi nhánh trên toàn cầu, hầu hết đều yếu kém. Đáng nói nhất là dự án kết nối Internet Iridium đã tiêu tốn 2,6 tỷ USD và hàng ngàn giờ làm việc của kỹ sư Motorola lại thất bại và phá sản vào năm 1999. Cuộc khủng hoảng công nghệ và viễn thông bắt đầu từ năm 2000 khiến giá cổ phiếu Motorola sụt giảm, trong khi bệnh SARS năm 2002 làm gián đoạn chuỗi cung ứng quốc tế. Chỉ riêng năm 2001, doanh thu giảm gần 7 tỷ USD xuống còn 30 tỷ USD, lỗ gần 4 tỷ USD.
Để giảm thiểu thiệt hại, tân CEO sa thải 56.000 trên gần 150.000 lao động, đóng cửa nhà máy. Ông đặt mọi hi vọng vào mẫu di động gập RAZR nhưng bị đuổi việc trước khi thiết bị trình làng do kết quả kinh doanh yếu kém. Ba tháng sau, công ty dần phục hồi khi RAZR trở thành “quái vật” với hơn 50 triệu máy bán ra trong hai năm đầu. Đến năm 2004, giá trị thị trường Motorola đạt mốc 42 tỷ USD. Người vui mừng nhất chắc chắn là Ed Zander, CEO thay thế Chris Galvin.
Nước cờ "dại dột"
Khi đang say men chiến thắng, một trong những quyết định tồi tệ nhất của Zander với tư cách người đứng đầu doanh nghiệp chính là ký thỏa thuận với Apple của người bạn thân Steve Jobs. Hai công ty phát triển điện thoại Motorola Rokr E1, mẫu điện thoại đầu tiên kết nối thư viện âm nhạc iTunes của Apple. Zander tin rằng hợp tác với Apple sẽ khiến Motorola thú vị trở lại. Thực tế ngược lại. Motorola đã dạy cho một trong những công ty sáng tạo nhất, cạnh tranh nhất và thu hút khách hàng nhất cách làm ra một chiếc điện thoại.
Hai năm sau, khi Jobs giới thiệu iPhone, Motorola vẫn mải mê với RAZR và ra nhiều phiên bản càng tốt. Kết quả là họ thu về lợi nhuận biên thấp chưa từng có. Một nhà phân tích ước tính họ chỉ kiếm được 5 USD trên mỗi thiết bị bán ra.
Bên cạnh đó, do sa thải liên tục trong vài năm, cỗ máy sáng tạo của Motorola cũng chững lại. Zander nói ông nhìn thấy kỷ nguyên của smartphone đang đến nhưng Motorola không có người hiểu biết về phần mềm liên quan. Ông tự nhận sai lầm của mình là không tự điều hành bộ phận di động. Một sai lầm khác là ông để mặc việc kinh doanh tại Trung Quốc cho giám đốc vùng, dẫn đến sụp đổ vào năm 2007. Cũng năm này, Samsung qua mặt Motorola về doanh số điện thoại lần đầu tiên.
Năm 2008, dưới áp lực của cổ đông, Motorola tách riêng bộ phận di động, đứng đầu là hai đồng CEO Greg Brown và Sanjay Jha. Để ngăn chặn tình trạng mất tiền vô ích, Jha quyết định cắt giảm cả chi phí lẫn số lượng điện thoại. Tại Motorola, 60 quản lý làm việc cho hàng chục mẫu khác nhau. Ngược lại, Apple dồn tất cả nỗ lực vào một mẫu duy nhất. Jha tìm ra cách để cứu vãn kinh doanh, đó là làm một mẫu điện thoại thành công cho Verizon, nhà mạng đang gặp khó khăn khi cạnh tranh với AT&T, nhà phân phối độc quyền iPhone.
Một việc đau đầu với Jha khi đó là phải chọn lựa giữa hệ điều hành Windows Phone và Google Android. Thậm chí, khi trình bày kế hoạch sử dụng Android vào đầu năm 2009, một lãnh đạo hàng đầu tại Motorola đã tuyên bố đây là điều điên rồ. Google Android chưa sẵn sàng cho thời hoàng kim, còn Microsoft là một trong những công ty phần mềm quyền lực nhất. Dù vậy, với số phiếu bầu 4-3, kế hoạch của ông được thông qua.
Mẫu Motorola Droid ra đời tháng 10/2009 với sự tham gia của 200 kỹ sư Motorola và một nhóm nhân viên Google, dẫn đầu là “cha đẻ Android” Andy Rubin. Vài tháng đầu tiên, doanh số Droid cao hơn cả iPhone. Đến cuối năm 2010, sau 4 năm lỗ nặng, bộ phận di động có lãi trở lại.
Song, với những người làm việc lâu năm tại Motorola, thành công của Droid xen lẫn sự cay đắng. Motorola Droid không phải loại phát minh làm thay đổi thế giới như Motorola DynaTAC, chiếc điện thoại di động đầu tiên của nhân loại. Hơn nữa, công ty lại vô tình dạy cho các hãng khác cách làm ra một thiết bị Android tuyệt vời. Rất nhanh, các đối thủ cũ, đặc biệt là Samsung, lấn lướt thị trường.
Vào thời điểm Motorola chia tách năm 2011 thành Motorola Mobility và Motorola Solutions, Google tiến hành kế hoạch thâu tóm Motorola Mobility. Google mua lại công ty thành công vào tháng 5/2012 với giá 12,5 tỷ USD. Jha nghỉ việc ngay sau đó và được thay thế bằng người mới. Dù vậy, mọi kỳ vọng của Google với Motorola đều không thành, thể hiện rõ nhất ở khoản lỗ tích lũy hơn 1 tỷ USD vào thời điểm quý I/2014. Đó là lý do Google “bán vội” Motorola Mobility cho Lenovo với giá rẻ mạt, 2,91 tỷ USD. Thương vụ hoàn tất ngày 30/10/2014, mở ra chương mới cho “huyền thoại” Mỹ dưới trướng một công ty Trung Quốc.
Du Lam
Từ một kẻ vô danh trong làng di động, Apple đã vươn lên thống lĩnh thị trường bằng cách nào?
" alt=""/>Bi kịch mang tên MotorolaĐây là ý kiến của phó thủ tướng Vũ Đức Đam tại Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học năm 2014, diễn ra sáng ngày 15/8.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại đầu cầu hội nghị phía Nam, diễn ra ở ĐH Tôn Đức Thắng |
Ba câu hỏi của "người dân"
Theo ông Vũ Đức Đam, người dân quan tâm “Khi thi đại học, con tôihọc ở trường nào là phù hợp nhất, học ở trường nào thì ra có việc làm,có thu nhập, có cơ hội học tiếp chương trình tiên tiến nhất?”
Vấn đề thứ hai là “Làm sao để thu hút nhà đầu tư giáo dục yên tâm đầu tư? Trường công sử dụng ngân sách hiệu quả hơn? Tự chủ thế nào?”.
Và về thi cử - vấn đề đang được quan tâm nhất hiện nay.“Giáo dục đưa ra nhiều phương án còn người dân thì mong muốn là rõràng, công bằng, bớt nhiêu khê và cuối cùng quan trọng là tổ chức thithế nào để con cháu có động lực học?".
Tổ chức kiểm định độc lậpSau khi đã lắng nghe tới cuối hội nghị, ông Đam đã có một số yêu cầu, đề nghị tới Bộ GD-ĐT và hiệu trưởng các trường đại học.
Vềcơ cấu hệ thống giáo dục, ông Đam nhận xét “bắt đầu sau phổ thông cơcấu như ma trận, nhìn mô hình thấy rất lằng nhằng”. Ông Đam yêu cầu BộGD-ĐT làm rõ việc xác định bậc trung cấp như thế nào, cao đẳng như thếnào, đại học như thế nào, liên thông với nhau ra sao để tương thích vớithế giới.
“Như vậy, sẽ dễ trả lời câu hỏi của người dân “trường này ở “ô” nào?”.
ÔngĐam cũng yêu cầu Bộ xác định việc xếp hạng các trường căn cứ vào đâu,việc kiểm định ai làm? “Luật Giáo dục quy định Nhà nước công nhận, nhưngcó phải Nhà nước chuẩn bị xếp hạng hay không hay do ai chuẩn bị? Bộ làđơn vị kiểm định các tường hay ai?”
“Ở đây phải tính đến vai tròcủa các hiệp hội, tổ chức độc lập. Phải bàn kỹ nên để tổ chức độc lập,Bộ hay Chính phủ làm. Nhưng xu hướng tốt nhất là nên để độc lập. Bộ bànkỹ rồi đưa ra ủy ban đổi mới giáo dục quốc gia để sớm công bố”.
“Cócơ cấu hệ thống rồi, ai nhìn cũng hiểu, cộng với tổ chức độc lập đángtin cậy, thì đây sẽ là tham số tốt cho học sinh phổ thông định hướng,lựa chọn trường học”.
Các trường cần sớm “ra riêng”
Về vấnđề tự chủ, đầu tư trong giáo dục, ông Đam một lần nữa khằng định chủtrương của Nhà nước khuyến khích đầu tư giáo dục, y tế, dịch vụ côngtheo quy định pháp luật.
“Nói ngoài giáo dục một chút, 20 nămtrước đây Việt Nam chỉ có 11 nghìn doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó mới chodoanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư phát triển. Đã phải nhiều lần sửaluật để cơ bản hình thành môi trường như hiện nay.
Ngoài ra còn cócông cuộc đổi mới, sắp xếp lại, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Từ 11nghìn doanh nghiệp xuống còn dưới 1 nghìn ở thời điểm hiện tại.
Trongkhi đó, số lượng trường ngoài công lập vẫn rất ít. Các ý kiến từ lâunay đều cho rằng đây là dịch vụ liên quan tới con người nên không giảiquyết như doanh nghiệp được”.
Nhưng, theo ông Đam, vẫn phải tính,trường dù là trường công, nhưng quản lý phải như doanh nghiệp, và hiệuqủa như doanh nghiệp tư nhân.
“Phi lợi nhuận hay không chỉ là mộtcách nói. Bất kỳ đơn vị nào cũng phải có đầu ra đầu vào, vấn đề là lãidùng để chia nhau hay để đầu tư”.
“Nhà nước đã đầu tư rất nhiều cơsở vật chất, tài chính cho trường công. Bây giờ, cần khuyến khích tinhthần tự chủ. Phải tính toán để các trường xin tự chủ, không để tìnhtrạng tiền còn mấy chục tỉ trong két trường mà không tiêu”.
Muốntự chủ, theo ông Đam, các trường phải mạnh dạn không xin ngân sách - “Từnay trở đi chúng tôi không cần bầu sữa Nhà nước nước nữa”.
“Ngoàihành lang hội nghị, có đại biểu đã trao đổi đơn giản với tôi: Việc tựchủ giống như con cái đang ở với bố mẹ, vừa muốn đi chơi tới 11 rưỡi mớivề, vừa muốn phụ thuộc kinh tế vào bố mẹ. Tại sao không xin ra ở riêngđi, rồi muốn đi chơi đến lúc nào về cũng được?”
“Với câu hỏi cáctrường làm được không? Tôi xin trả lời làm được. Tôi giật mình khi biếtcó những trường xin tự chủ rồi mà vẫn chưa được đồng ý”.
Ông Đamyêu cầu Bộ GD-ĐT phải làm quyết liệt, nếu được đưa ra Chính phủ, giaocho các trường tự chủ tài chính, nhân sự như thế nào, học phí ở mứcnào…. Động viên trường nào đủ điều kiện tham gia sớm, tiến tới tất cảcác trường tham gia.
Làm được điều này cũng sẽ giải quyết được vướng mắc của các trường tư.
Ông Đam cho biết từ nay đến cuối năm sẽ cố gắng ra được nghị định về cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục công lập.
Thi gì không quan trọng bằng trung thực, khách quan
Về phương án tuyển sinh mới, theo ông Đam, “Vấn đề chuyên môn khó, là phần việc các thầy cô lo, người dân chỉ mong rõ ràng. Phương án thi cần được công bố trước ngày khai giảng, thời gian cũng không còn nhiều.
Thi gì không quan trọng bằng đảm bảo trung thực, khách quan, bớt nhiêu khê”.
Ông Đam cũng lưu ý Bộ GD-ĐT rằng kỳ thi cần mang tính tương đối ổn định. “Trong thực tế hiện nay và giai đoạn trước mắt, tỉ lệ tốt nghiệp THPT cao, và đáng tin cậy hơn là kỳ thi đại học. Nhưng sau này tốt lên rồi, ai tốt nghiệp phổ thông cũng có quyền ghi danh đại học, “vai” lại chuyển sang phổ thông. Bộ cần cân nhắc để ra phương án công bằng, rõ ràng, không nhiêu khê quá, khuyến khích con cháu đi học”.
Kết thúc phần phát biểu, ông Đam nhấn mạnh “Có rất nhiều văn bản, chỉ đạo rồi, bây giờ phải xông vào làm. Những vướng mắc về trường tư, tự chủ hay kiểm định… làm đến đâu gỡ đến đó, không cầu toàn”.
Sau thảo luận của một số hiệu trưởng, chủ yếu bàn nhiều về đổi mới thi cử, lúc 11h, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đã có phát biểu khá dài về các vấn đề được đặt ra. Xem chi tiết TẠI ĐÂY. |
![]() |
Thí sinh thi đại học. Ảnh: Văn Chung |
Cụ thể như sau (mức điểm dành cho HSPT-KV3):
Khối A | Khối A1 | Khối B | Khối C | Khối D | |
Mức 1 | 17 | 17 | 18 | 17 | 17 |
Mức 2 | 14 | 14 | 15 | 14 | 14 |
Mức 3 | 13 | 13 | 14 | 13 | 13 |
Mức điểm tối thiểu xét tuyển cao đẳng như sau:
Khối A | Khối A1 | Khối B | Khối C | Khối D | |
Mức điểm | 10 | 10 | 11 | 10 | 10 |
Nguồn tuyển dồi dào
Sau hơn 1,5 giờ thảo luận, Hội đồng đã xác định các mức điểm xét tuyển cơ bản.
Theo Thứ trưởng Bùi Văn Ga, Hội đồng thống nhất cao ở ba tiêu chí: Phổ điểm của các khối thi đã công bố khá lý tưởng, dịch chuyển về phía bên tay phải. Phổ điểm khối A, A1, B có đỉnh cao hơn năm trước khoảng 3 điểm. Phổ điểm khối C, D tương đương.
Điểm trung bình là mức điểm thí sinh đạt được nhiều nhất. Điểm thi của các trường cũng không có sự đột biến. Vì vậy xác định phổ điểm dễ hơn.
Mặc dù số lượng hồ sơ đăng ký dự thi năm nay giảm hơn 20% so với năm trước, nhưng số lượng thí sinh dự thi thực tế tương đương năm 2013, vào khoảng 1,05 triệu thí sinh.
Hội đồng không xác định điểm sàn mà xác định tiêu chí thế nào thí sinh vào học ĐH, CĐ được. Trong khi thảo luận, có những thành viên trong hội đồng cho rằng muốn học đại học được thí sinh phải đạt 15 điểm.
Tuy nhiên, từ trước đến nay điểm sàn tính dựa trên phổ điểm chứ không phải là điểm trung bình. Thực tế thí sinh vào học khi tính điểm sàn theo phổ điểm vẫn đảm bảo chất lượng.
Vì vậy, Hội đồng đã xác định mức điểm tối thiểu thí sinh học đại được căn cứ trên phổ điểm của năm 2014, ở khối B là 14, các khối còn lại là 13.
Mức 2: căn cứ trên trung vị của phổ điểm, bằng Mức 3 + 1 điểm.
Mức 1: là mức cao nhất, dựa trên cơ sở từ 20 – 30% thí sinh đạt được. Mức điểm này dành cho các trường nhóm trên. Mức 1 = Mức 2 + 3 điểm.
Quy trình xét các mức điểm đảm bảo chất lượng khác cơ bản so với các xét điểm sàn trước đây. Hội đồng tính toán theo tỉ lệ % thí sinh đạt được chứ không tính theo con số tuyệt đối như trước.
Với cách tính này, có 65% thí sinh dự thi đạt được Mức 3, tương đương với khoảng 650 nghìn thí sinh.
Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh đại học là 350 nghìn. Như vậy nguồn tuyển khá thoải mái. So sánh với năm 2013, mức dôi dư của năm 2014 lớn hơn.
Ông Ga cũng lưu ý, vì các trường xét tuyển từ trên xuống dưới nên không phải thí sinh nào đạt từ mức 3 trở lên cũng trúng tuyển vào đại học.
Các trường nhóm giữa cần cân nhắc nhiều mặt khi lựa chọn mức điểm của trường mình, chia sẻ khó khăn của cả hệ thống.
Đối với bậc cao đẳng, có nhiều ý kiến đề nghị giảm thêm so với mức 3 điểm. Nhưng từ thực tế điểm thi của thí sinh, mức điểm cao đẳng lấy từ mức thấp nhất của đại học trừ đi 3 vẫn có 80% thí sinh đạt (từ 10 điểm trở lên). Giảm nữa sẽ cạn nguồn tuyển của TCCN và trường nghề.
Tiêu chí xếp hạng trường
Ông Ga cho biết, các mức điểm này sẽ phân khúc nguồn tuyển. Các trường nhóm trên lấy mức cao nhất, các trường nhóm trung bình ở mức 2, và các trường mới thành lập, đang trongq úa trình phát triển ở mức 3.
Với phân khúc này, các trường cần hết sức cân nhắc khi chọn lựa mức đầu vào. Bởi vì, xã hội cũng dựa vào đây để đánh giá.
Bộ đang xây dựng tiêu chí xếp hạng đại học. Đây sẽ là một trong những tiêu chí để xếp hạng trường. Vì vậy, việc đưa ra các mức điểm cơ bản sẽ tập cho các trường dần có tính toán cụ thể, không chỉ lo tuyển đủ chỉ tiêu mà quên đi uy tín chất lượng.
Sau khi kết thúc buổi họp, ông Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, trả lời thêm một số câu hỏi của báo chí. Trung vị của điểm thi có phải là mức 50% thí sinh đạt được không, thưa ông? - Khái niệm trung vị là tại điểm đó có 50% đạt được. Thực tế, mức 3 = trung vị - 0,5 điểm; mức 2 = trung vị + 0,5 điểm. Bộ GD-ĐT thống kê có 1.05 triệu thí sinh dự thi. Nhưng trên thực tế có những thí sinh vẫn thi hai khối, vẫn có con số ảo, nên có thể số lượng thí sinh đủ điều kiện xét tuyển vào đại học không lớn như dự kiến. Bộ có tính toán điều này không? - Năm nay chúng tôi phân tích cụ thể chi tiết hơn. Số liệu tính toán là thí sinh thi đầy đủ cả 3 môn ở mỗi khối thi. Khi nào Bộ công bố số lượng cụ thể thí sinh đạt được ở 3 mức điểm để các trường căn cứ vào đó lựa chọn mức điểm cho trường mình? - Bộ không công bố con số cụ thể mà chỉ có tỉ lệ phần trăm. Các trường căn cứ vào chỉ tiêu, vào số lượng thí sinh dự thi, vào kết quả thi của thí sinh đã đạt được để có sự lựa chọn phù hợp. Bộ cho rằng đây sẽ là một tiêu chí để xếp hạng đại học. tuy nhiên, có thể từ năm 2015 không còn kỳ thi tuyển sinh riêng như thế này nữa. Vậy thì có nên lấy két quả chỉ có giá trị trong 1 năm để xếp hạng các trường không? - Việc căn cứ vào ngưỡng xét tuyển chỉ là một trong những tham số để xếp hạng trường. Nên cho dù là hình thức thi nào thì cũng có những tiêu chí hết sức cụ thể để xác định chất lượng thí sinh của trường đó và thực hiện phân tầng. Tùy vào hình thức thi như thế nào sẽ có tiêu chí như thế đó. Việc này sẽ tường mình và rõ ràng. |