
Các phần mềm diệt virus không còn hữu hiệu, doanh nghiệp đứng ngồi không yên vì an ninh mạng bị đe dọa. Ảnh: VentureBeat. |
Năm 2020 là thời điểm những cuộc tấn công mạng nhằm vào các doanh nghiệp trên thế giới gia tăng đáng kể. Tỷ lệ tội phạm mạng toàn cầu đã tăng 15% mỗi năm trong 5 năm qua, số liệu thống kê từ Cybersecurity Ventures. Ước tính thiệt hại mà doanh nghiệp trên thế giới phải chịu là 6 nghìn tỷ USD.
Công ty an ninh mạng CrowdStrike (Mỹ) cho biết 2020 "có lẽ là năm các hoạt động tấn công diễn ra mạnh mẽ nhất", theo VentureBeat.
Mục tiêu mới của tội phạm mạng
Báo cáo từ CrowdStrike đã chỉ ra tội phạm mạng đang chuyển sang tấn công các mục tiêu có giá trị như các công ty lớn. Việc tấn công vào những doanh nghiệp ngày càng phổ biến vì chúng dễ sinh lợi hơn nhắm vào những người dùng cá nhân. Họ gọi đây là "cuộc đại săn lùng".
Trong 18 tháng qua, những phần tử tội phạm đã phát triển nhiều phương thức mới, cũng như liên minh với nhau để gia tăng phạm vi tấn công. Đặc biệt, nhiều kỹ thuật mã độc tống tiền tinh vi được phát triển nhằm phục vụ cho việc trục lợi.
 |
Một cuộc tấn công mạng không chỉ gây tổn thất kinh tế cho doanh nghiệp, nó còn khiến chính phủ lao đao vì phải tìm cách giải quyết. Ảnh: The Conversation. |
"Những kẻ xấu muốn chiếm đoạt càng nhiều thông tin càng tốt. Sau đó, chúng sẽ đưa ra lời đe dọa tựa như 'nếu không trả tiền, chúng tôi sẽ phát tán tất cả những thông tin nhạy cảm này'. Dữ liệu bị đánh cắp đều có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của doanh nghiệp", Phó chủ tịch CrowdStrike, ông Adam Meyers chia sẻ với Venture Beat.
"Chúng ta cần có một giải pháp phòng bị tiên tiến hơn. Những phần mềm diệt virus đã chết rồi", ông Adam Meyers nói.
Bên cạnh đó, tội phạm mạng còn lợi dụng đại dịch Covid-19 để tấn công các công ty y tế cùng nhiều doanh nghiệp đang chuyển sang hình thức làm việc tại nhà. Theo báo cáo, hơn 71% chuyên gia an ninh lo ngại bối cảnh dịch bệnh sẽ là thời điểm tuyệt vời để những kẻ xấu lộng hành.
"Chúng ta cần có một giải pháp phòng bị tiên tiến hơn. Những phần mềm diệt virus đã chết rồi", Meyers nói.
Brian Dye, CEO của công ty phần mềm Symantec (Mỹ) cũng từng đưa ra những nhận định tương tự. Ông cho biết những chương trình diệt virus chỉ quét được khoảng 45% các cuộc tấn công, đây là con số tương đối thấp.
Các phương thức tấn công mạng đôi khi chỉ xuất hiện một lần và nhanh chóng thay đổi để vượt mặt các bản vá bảo mật. Điều này khiến những phần mềm diệt virus truyền thống gặp nhiều khó khăn.
Do đó, cách phòng bị tốt nhất là các đơn vị doanh nghiệp cần vạch ra những mối đe dọa có thể xảy ra và phát triển giải pháp bảo mật.
CrowdStrike đã dựa vào thông tin từ các nhà phân tích mạng hàng đầu để đề ra các xu hướng, cũng như phương pháp bảo mật tốt nhất cho doanh nghiệp.
Lợi dụng đại dịch Covid-19, tội phạm mạng bùng nổ
Trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe được đề cao, các doanh nghiệp y tế, chính phủ và nhiều công ty làm việc từ xa đã trở thành mục tiêu của những kẻ xấu.
Ban đầu, việc tấn công chỉ nhằm vào thu thập tỷ lệ lây nhiễm cũng như các đối sách của chính phủ. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng chuyển sang đánh cắp các thông tin liên quan đến vaccine.
 |
Lợi dụng tâm lý hoang mang của người dân trong đại dịch Covid-19, các nhóm hacker đã thực hiện nhiều phi vụ lừa đảo. Ảnh: Public Spectrum. |
CrowdStrike cho biết các phần tử tội phạm tại Trung Quốc, Triều Tiên và Nga đều tấn công vào dữ liệu nghiên cứu vaccine. Trong năm 2020, có ít nhất 104 tổ chức chăm sóc sức khỏe bị nhiễm mã độc.
Không chỉ vậy, nhiều nhóm hacker còn chiếm đoạt các gói cứu trợ Covid-19 dành cho doanh nghiệp. Các gói hỗ trợ tài chính và kích thích kinh tế của Mỹ cũng bị rơi vào tầm nhắm. Bên cạnh đó, nhiều phi vụ lừa đảo mạo danh các tổ chức như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC)... đã diễn ra thường xuyên.
Quá trình thay đổi mô hình làm việc cũng khiến vấn đề an ninh mạng của nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Cụ thể, việc đột ngột chuyển sang làm việc trên máy tính riêng đồng nghĩa thông tin của công ty được lưu trữ trên các thiết bị cá nhân này dễ bị những mã độc tinh vi đánh cắp.
"Tác động lớn nhất của việc làm tại nhà là nó khiến phạm vi tấn công của tội phạm mạng được mở rộng", ông Meyers chia sẻ.
Quyền sở hữu trí tuệ bị chiếm đoạt
Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ (IP) cũng có thể trở thành đối tượng cho một cuộc tấn công mạng quy mô lớn.
 |
Bảng thống kê các cuộc tấn công mạng bằng mã độc. Ảnh: VentureBeat. |
Theo VentureBeat, Trung Quốc hiện có một "danh sách mua sắm" ghi lại hàng loạt những công nghệ sử dụng tình báo kinh tế để có được thông tin giúp họ đi trước quá trình phát triển hiện tại.
Các nhóm hacker cũng rất quan tâm đến việc thâm nhập các công ty an ninh mạng vì chúng đem lại nhiều lợi ích cho một vụ tống tiền tinh vi. Điển hình như cuộc tấn công vào hãng bảo mật FireEye vào tháng 12/2020.
Bên cạnh IP, tất cả chiến lược đàm phán, kế hoạch mở rộng và lợi nhuận của một công ty bất kỳ đều có thể trở thành mục tiêu tiềm năng.
Tấn công chuỗi cung ứng được đưa lên một tầm cao mới
Năm 2020, nước Mỹ đã chứng kiến một vụ tấn công an ninh mạng chấn động. Cụ thể, một nhóm hacker đã chèn mã độc vào phần mềm quản lý mạng do một công ty ở Texas có tên SolarWinds sản xuất. Điều này khiến thông tin quan trọng của chính phủ Mỹ cùng nhiều cơ quan khác bị chiếm đoạt.
Ủy ban Chứng khoáng và Sàn giao dịch Mỹ (The SEC) xác nhận được ít nhất 18.000 người là nạn nhân của cuộc tấn công, bao gồm các tập đoàn tư nhân và chính phủ.
Các cuộc tấn công vào chuỗi cung ứng gây tổn hại phần lớn vì hiệu ứng domino. Theo đó, trong một lần xâm nhập, chúng có thể chiếm đoạt thông tin từ nhiều mục tiêu khác nhau.
“Cuộc tấn công những chuỗi cung ứng diễn ra ở phạm vi lớn chưa từng có, nó làm tôi phải thức trắng nhiều đêm” Meyers nói.
"2021 sẽ là năm của mã độc tống tiền", theo báo của của CrowdStrike.
 |
Cũng như dịch bệnh, các mã độc có thể lây lan sang nhiều doanh nghiệp, tổ chức có liên kết với nhau. Ảnh: SecurityBrief. |
VentureBeat cho biết sự ra đời của các trang web lộ thông tin chuyên dụng (dedicated leak sites) trên dark web là một trong những nguyên nhân giúp các phi vụ tống tiền bằng mã độc diễn ra thuận lợi.
Cụ thể, tội phạm mạng sẽ đăng tải thông tin lên dark web nhằm tạo áp lực cho phía doanh nghiệp, buộc họ phải nhanh chóng trả tiền để lấy lại dữ liệu.
Điển hình là cuộc tấn công nhằm vào công ty luật Grubman Shire Meiselas and Sacks tại New York. Theo đó, một nhóm tội phạm đã đánh cắp hồ sơ của các công ty và người nổi tiếng bao gồm Madonna, Bruce Springsteen, Facebook... Sau đó, chúng phát tán một kho lưu trữ chứa 2,4 GB hồ sơ pháp lý của Lady Gaga để chứng minh và gây sức ép.
Cách tiếp cận này đã được ít nhất 23 tội phạm mã độc trên thế giới áp dụng vào năm 2020. Ước tính số tiền chuộc trung bình là 1,1 triệu USD.
Doanh nghiệp có độ nhận diện thương hiệu càng cao thì áp lực số tiền phải trả càng lớn. Những nhóm tội phạm thậm chí còn thành lập các liên minh, như Maze Cartel, nhằm phân tán thông tin rộng hơn. Điều này khiến nhiều công ty gặp khó khăn trong việc kiểm soát nguồn bị đánh cắp. Ngay cả khi họ chủ động xóa dữ liệu, vấn đề cũng không được giải quyết.
Một trong những biến thể của mã độc chính là những mã độc dưới dạng dịch vụ (RaaS), một loại công cụ được thiết kế để bất kì ai cũng có thể sử dụng mã độc mà không cần tới kiến thức lập trình. Theo đó, các tin tặc có quyền truy cập vào các phần mềm độc hại được phát triển bởi một RaaS và kiểm soát chúng. Cách thức này cho phép các nhóm hacker giảm thiểu thời gian tiếp cận mục tiêu và triển khai nhiều phần mềm độc hại nhanh hơn.
Doanh nghiệp chống lại các mối đe dọa thế nào?
Theo Meyers, dưới đây là năm điều doanh nghiệp nên làm để hạn chế các trường hợp bị tấn công mạng.
1. Bảo mật doanh nghiệp:
Các công ty cần đề ra nhiều biện pháp bảo vệ nhất có thể. Đồng thời, cập nhật các bản vá lỗ hổng bảo mật định kỳ. Cùng với đó là nắm vững "nguyên tắc đặc quyền tối thiểu" (the principle of least privilege).
2. Chuẩn bị phòng thủ:
CrowdStrike đề xuất quy tắc 1-10-60. Cụ thể, doanh nghiệp cần chuẩn bị các biện pháp nhằm xác định cuộc tấn công trong vòng một phút, phản hồi nó trong vòng 10 phút và ngăn kẻ tấn công trong vòng một giờ.
3. Có một giải pháp bảo mật tiên tiến hơn:
Theo Meyers gợi ý, các mối đe dọa có thể được phát hiện nhanh hơn với Machine Learning thay vì các phần mềm diệt virus.
4. Đào tạo và thực hành:
Tập hợp các giám đốc điều hành và hội đồng quản trị lại với nhau để phát triển một kế hoạch ứng phó. Cần đảm bảo nhân lực để xử lý các cuộc tấn công mạng ở mọi quy mô.
5. Sự thông minh:
Nhận thức được các mối đe dọa, những kỹ thuật và công cụ nào sẽ được sử dụng đối với loại hình kinh doanh của công ty bạn. Xác định và tìm cách đối phó.
(Theo Zing)

Nhiều ứng dụng diệt virus nổi tiếng mắc những lỗi bảo mật phổ biến
Có 28 chương trình chống virus nổi tiếng, bao gồm cả Microsoft Defender, McAfee Endpoint Security và Malwarebytes, từng chứa hoặc đang chứa những lỗi cho phép kẻ tấn công xóa các tệp cần thiết trên thiết bị người dùng.
" alt="'Phần mềm diệt virus đã chết'"/>
'Phần mềm diệt virus đã chết'

 |
GS Chu Hảo: "Ở Việt Nam ta bây giờ, cứ có bằng đại học rồi thạc sĩ, tiến sĩ là nghiễm nhiên được coi như trí thức" |
- Và vì thế, khi đụng chạm tới gốc gác của các trí thức Việt Nam, chúng ta vẫn buộc phải nói về những trí thức Nho giáo. Thưa ông, các nhà nho Việt Nam xưa nay luôn coi Thái thú Sĩ Nhiếp là ông tổ của sự học, là người đầu tiên mang Nho giáo vào Việt Nam...
- Đúng là ông ấy đã mang vào một tư tưởng và các thế hệ học trò sau này đã học theo ông ấy, học cái mà chúng ta vẫn gọi là “chữ thánh hiền”. Vấn đề là, học chữ thánh hiền để làm gì? Có thể trả lời ngay là học để làm quan, để trở thành những người trung quân ái quốc. Vua sáng họ trung quân đã đành, vua không sáng, thậm chí có thể nói là “hôn quân” thì họ vẫn cứ trung quân.
- Như thế, ông Sĩ Nhiếp mang vào một nguồn sáng, nhưng lại gói nguồn sáng ấy trong vòng kim cô, và hàng thế kỷ sau, những trí thức Nho giáo Việt Nam không tìm được một Phật bà Quan Âm nào để tháo bỏ cái vòng kim cô ấy?
- Để trả lời câu hỏi này thì phải trở lại với khái niệm “trí thức” trước đã. Khái niệm mà bây giờ chúng ta dịch ra “người trí thức” xuất hiện ở Pháp và “tầng lớp trí thức” xuất hiện ở Nga vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Nó xuất hiện trong bối cảnh có những người vừa nhiều tri thức vừa biết sử dụng tri thức để tư duy độc lập, thậm chí là dám làm ngược lại vòng kim cô của cường quyền. Nói thế để nhà báo thấy người có tri thức nhưng không có khả năng tư duy độc lập thì không thể được gọi là trí thức. Nhưng ở Việt Nam ta bây giờ, cứ có bằng đại học rồi thạc sĩ, tiến sĩ là nghiễm nhiên được coi như trí thức rồi.
- Chiếu theo định nghĩa của ông thì tôi thấy thời phong kiến cũng có những nhà Nho dám suy nghĩ, tư duy độc lập đấy chứ...
- Tôi đồng ý với anh là ở Việt Nam, tầng lớp nho sĩ ngày xưa cũng có những cá nhân độc lập suy nghĩ, ví dụ như người thầy vĩ đại Chu Văn An...
- Người đã dâng “Thất trảm sớ” lên vua Trần...
- Sau khi thất trảm sớ không được thông qua thì ông đã từ quan về quê dạy học. Nhưng thứ nhất, những người như ông xét cho cùng cũng chỉ đề đạt ý kiến của mình mà thôi, vua nghe thì nghe, không nghe thì thôi, chứ cũng chẳng thay đổi được gì. Thứ hai, những người như ông quá ít, mà những người trung quân một cách mù quáng thì nhiều. Thứ ba, bao trùm tất cả vẫn là những nhà nho học chữ thánh hiền để mong được đỗ đạt, làm quan, và thường làm quan đến tận cuối đời.
Thật ra học để làm quan cũng tốt, vì trong xã hội phong kiến, nếu không làm quan được thì cũng chỉ có thể làm thầy thuốc, thầy tướng số, và phần lớn vẫn là... làm cái anh đi cày. Trong xã hội ấy, muốn thoát khỏi cảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” thì người ta chỉ có thể cố học mà làm quan, chứ không còn sự lựa chọn nào khác nữa.
- Đã đành mục đích học để làm quan không xấu, nhưng học theo cách thoả mãn danh vọng như thế, chứ không phải học để khám phá kiến thức... đã kìm hãm sự phát triển của đội ngũ tinh hoa Nho học Việt?
- Dân tộc nào cũng cần có những đội ngũ tinh hoa mang nhiệm vụ mở lối, dẫn đường. Nếu tầng lớp này bị hạn chế bởi năng lực trí tuệ thì cả dân tộc sẽ chìm trong bóng tối. Nhưng ở đây, đổ tại cho thời đại hay thể chế cũng chỉ là một lẽ, lẽ còn lại nằm ở sự nỗ lực của bản thân tầng lớp này nữa. Nhìn vào những dân tộc khác, chúng ta sẽ thấy có những dân tộc cũng bị bóng tối của thời đại và thể chế bao phủ, nhưng tầng lớp tinh hoa của họ vẫn vươn lên, vượt khỏi cái khuôn của thời đại và thể chế.
- Vậy điều gì khiến tầng lớp Nho học tinh hoa của ta không làm được điều này?
- Tôi cho rằng cội rễ vấn đề xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của nước ta, một đất nước luôn phải chống chọi với thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. Từ đặc điểm này mà trong não trạng của tầng lớp tinh hoa dân tộc luôn xuất hiện tư tưởng phải làm sao để tồn tại, thích nghi, chứ không phải là cố tạo dựng cho mình một tư tưởng riêng.
Ở đây tôi muốn nói rằng, sự thông minh của con người được chia thành 2 loại, một là thông minh tài khéo, hai là thông minh trí tuệ. Thông minh tài khéo nghĩa là nhanh trí, ứng biến giỏi, xử lý tình huống tốt, và đây là nét cơ bản nhất của tầng lớp trí thức Việt Nam. Còn thông minh trí tuệ nghĩa là có khả năng sáng tạo, tư duy sâu sắc. Nhìn sang phương Tây, từ thời cổ La Mã, Hy Lạp đến thời Phục hưng, khai sáng, chúng ta thấy trí thức phương Tây thuộc kiểu thông minh trí tuệ.
- Điều kiện nổi bật nào giúp họ tạo nên điều này?
- Ở phương Tây, ngay từ thời sơ khai đã xuất hiện những nhóm học thuật, và cùng với thời gian, những nhóm học thuật tập trung vào việc nghiên cứu tri thức, nghiên cứu sự phát triển không ngừng lớn lên. Ngoài ra có thể kể đến ánh sáng của thiên chúa giáo, vì chúng ta không quên trường đại học đầu tiên trên thế giới chính là trường của thiên chúa giáo, xuất hiện trong lòng phương Tây.
-Theo tôi, muốn có thông minh trí tuệ, tư duy độc lập, tinh thần khai sáng, người ta cần phải có một nền tảng chữ viết riêng. Nhưng thời phong kiến, chúng ta không có được nền tảng căn cốt ấy.
- Trong một thời gian rất dài, chúng ta đã dùng chữ Hán, dùng lý thuyết Nho giáo để cai trị đất nước. Sau đó, ông cha ta cũng rất nỗ lực tạo ra chữ viết riêng cho mình, đó là chữ Nôm, nhưng chỗ này thì theo tôi, ông cha ta không bằng ông cha của người Nhật Bản, Hàn Quốc.
Anh nghĩ xem, vẫn từ nền tảng chữ Hán, nhưng ở Nhật Bản, Hàn Quốc, người ta cải biên ra một kiểu chữ mới của riêng họ, và kiểu chữ ấy đơn giản, dễ đọc, dễ học tới mức mà mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể học theo. Xin nhấn mạnh là họ có thể học thứ chữ ấy mà không cần biết chữ Hán, nhưng ở ta, phải biết chữ Hán trước thì mới biết chữ Nôm. Chữ Hán vốn đã khó học rồi, chữ Nôm vì thế còn khó học hơn.
 |
GS Chu Hảo: "Trí thức Việt Nam cần chung tay thay đổi giáo dục Việt Nam, từ đó hy vọng tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. |
- Thưa ông, tôi bỗng hình dung đến cảnh một bậc trí giả nào đó đang đọc bài báo này, và họ sẽ đập mạnh tay xuống bàn, kịch liệt phê phán chúng ta là những người đang “bắn súng lục vào quá khứ”...
- Cái câu “Nếu chúng ta bắn súng lục vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn vào ta bằng đại bác” chỉ đúng trong trường hợp người ta phủ định sạch trơn quá khứ, sạch trơn công lao, đóng góp của tiền nhân, nhưng chúng ta đang không làm như thế. Chúng ta chỉ khách quan nhìn lại những cái được và những cái chưa được của những thế hệ trí thức trước mình để rút ra những bài học cho mình.
- Và đấy là việc mà những người văn minh nên làm, nếu không muốn nói là bắt buộc phải làm?
- Thế giới tự nhiên chia làm 4 bậc. Bậc đầu tiên là sỏi đá, bậc thứ hai là cây cỏ. Cây cỏ hơn sỏi đá ở chỗ cây cỏ có sinh, có tử, nghĩa là có sự sống, trong khi sỏi đá thì cứ trơ trơ. Đến cấp độ 3 là động vật thì động vật lại hơn cây cỏ ở chỗ bắt đầu biết hú gọi nhau, chia sẻ tình cảm cho nhau. Đến cấp độ 4 là con người thì con người lại hơn động vật vì biết tư duy, biết tự nhận xét bản thân mình. Như thế, con người cần phải nhìn nhận lại một cách đúng mức xem trong lịch sử, trong nền văn hoá của mình có gì ưu điểm, có gì khiếm khuyết. Trước chúng ta, ông Trần Trọng Kim chẳng đã từng nhìn nhận rất thẳng thắn và sâu sắc về những khiếm khuyết của con người Việt Nam đó sao?
- Và cùng thời với chúng ta, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn còn quan tâm cụ thể đến nhiều thói hư tật xấu của con người Việt Nam...
- Theo tôi, đi quá sâu vào tìm thói hư tật xấu cũng xuất phát từ ý đồ tốt thôi, nhưng cách tiếp cận điềm đạm, hai chiều của Trần Trọng Kim thuyết phục tôi hơn.
- Giờ thì tôi đã yên tâm quay trở lại với chủ đề chúng ta đang đối thoại. Thưa ông, tôi muốn đề cập tới những nhà nho bất mãn với thời cuộc và đã phản ứng bằng cách lẩn trốn thời cuộc như Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng hạn. Ông nghĩ gì về kiểu phản ứng này?
- Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả của một câu thơ - một tư tưởng lớn: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. Ở đây, ta thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm trốn thời cuộc và đã nhìn lên để thấy mình cao thượng hơn thời cuộc. Nó khác hẳn một số trí thức nhìn xuống, đánh đồng mình với thời cuộc.
Trong vấn đề này tôi muốn phân tích thêm rằng đừng nghĩ đơn thuần là người ta ở ẩn, đi tu có nghĩa là xong hết sự đời, không làm gì, không còn đóng góp, ảnh hưởng gì cho đời nữa. Tôi vẫn nghĩ, ngay cả khi người trí thức chọn cách tu tập cô đơn ở một ngọn núi hẻo lánh, xa xôi nào đó thì nguồn năng lượng tinh thần của họ vẫn cứ lan toả ra xung quanh. Và nguồn năng lượng tinh thần ấy, cái dưỡng chất được khuếch tán trong không gian, trời đất ấy vẫn rất có ích cho sự phát triển.
- Lại có một kiểu trí thức nho học bất mãn khác, đó là những người không ở ẩn, mà chuyển từ hành đạo sang hành lạc, tắm mình trong các thú vui cô đầu, con hát như Nguyễn Công Trứ...
- Nguyễn Công Trứ rất thân với ông Nghè Tân. Nguyễn Công Trứ theo nghiệp quan, lên đỉnh xuống vực, nhưng rốt cuộc không coi cái đỉnh - cái vực của nghề làm quan ra gì. Còn ông Nghè Tân không chịu làm quan, mà chỉ ngao du, mỉa mai, bỡn cợt cuộc đời. Họ là hai điển hình của mẫu người Nho học không màng danh vọng.
- Ông thích ai hơn?
- Ông Nghè Tân!
- Nhưng ông đã từng làm quan, từng có lúc mang hàm thứ trưởng...
- Tôi thích kiểu ông Nghè Tân hơn, nhưng đúng là tôi lại có phần giống Nguyễn Công Trứ hơn. Giống ông ấy ở chỗ “làm quan” mà vẫn có chút thẳng thắn và cũng ưa phóng túng. Và dẫu làm quan hay không thì tôi vẫn luôn nói cùng một giọng.
Đến chân trời Tây học
- Giờ thì chúng ta không nói đến những trí thức Nho học nữa, mà chuyển qua những trí thức phương Tây từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Ông có ấn tượng đặc biệt gì với đội ngũ trí thức được tiếp thu với chân trời và ánh sáng Tây phương này?
- Tôi ấn tượng vô cùng, mà ấn tượng nhất chính là cụ Phan Chu Trinh, với con đường “khai dân trí/ chấn dân khí/ hậu dân sinh” của cụ. Phải khai dân trí trước rồi mới nghĩ tới chuyện chấn dân khí đấy nhé, chứ nếu ngược lại, nghĩa là có khí trước rồi mới có trí thì khí ấy dễ trở thành khí loạn. Cụ Phan Châu Trinh là người đầu tiên nhận thức được nước mình lạc hậu hơn so với thiên hạ cả một thời đại văn minh. Có thể nói, với ánh sáng dân chủ, dân quyền phương Tây, cụ đã tìm ra một phương thức cứu nước, xây dựng đất nước rất hiện đại và đúng đắn.
- Nhưng phải khách quan thừa nhận rằng cuối cùng thì cụ đã thất bại.
- Thất bại vì chẳng qua lúc ấy điều kiện xã hội ta chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi như mong muốn của cụ, chứ nhìn vào cội rễ vấn đề, chúng ta thấy tư tưởng của cụ có tầm chiến lược rất lớn, vượt tầm thời đại.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, với sự xuất hiện của hàng loạt các tên tuổi như Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố..., chúng ta đã có một đội ngũ trí thức sáng láng nhất trong dòng chảy lịch sử dân tộc mình.
- Ánh sáng phương Tây quả là ghê gớm. Nhưng thưa ông, phương Tây khi ấy xét cho cùng chính là nước Pháp, mà thực dân Pháp chính là người đã nô dịch chúng ta. Có điều gì nghịch lý ở đây không, thưa ông?
- Ý đồ áp đặt, bóc lột chúng ta của người Pháp là rõ ràng, không có gì phải tranh cãi. Nhưng khi ở Pháp có phong trào bình dân của những người cánh tả nổi lên, những người thấm nhuần tư tưởng tự do bác ái, thì những người này sau đó đã tới Việt Nam, và ở một góc độ nào đó là đã đóng góp quan trọng vào việc phổ biến ánh sáng phương Tây cho trí thức Việt Nam. Giáo dục Pháp thời ấy tạo cho xã hội Việt Nam 2 tầng lớp sáng giá là trí thức và tư sản dân tộc. Những người này không chỉ đơn thuần giỏi chuyên môn của họ, mà còn là những người có phông văn hoá, có nền tảng văn hoá lớn.
- Nhưng bên cạnh việc tạo nên một nhóm nhỏ trí thức xuất chúng ấy thì nền giáo dục thuộc địa lại khiến đại bộ phận dân ta mù chữ, mà nếu tôi nhớ không nhầm là “90% người dân Việt Nam không biết một chữ nào cả” theo phản ánh của một tờ báo thời điểm ấy.
- Thời ấy người ta vẫn coi học vấn là tinh hoa, chứ không phải là đại trà. Sau này thì học vấn mới là đại trà, và bây giờ nếu nhìn kỹ có thể thấy đại học ở ta đã trở thành đại trà cũng nên.
- Thời đại chúng ta bây giờ thì không phải là Tây học, Pháp học hay Nga học nữa, mà có lẽ phải gọi là “phong phú học” khi học sinh của ta đi du học ở rất nhiều nước khác nhau trên thế giới. Những người này rồi sẽ trở thành những nhà trí thức như thế nào, theo dự đoán của ông?
- Bây giờ ai cũng mong có tiền, có học bổng, có điều kiện để được đi du học, trong đó có cả con cái của giới quan chức, lãnh đạo.
Theo tôi thấy, những người đi du học sau này có thể trở thành những trí thức rất giỏi nghề, giỏi chuyên môn hẹp của mình, nhưng nền tảng văn hoá chung thì có lẽ bất ổn. Bởi nền tảng văn hoá chung ở đây là những hiểu biết về chính trị, về triết học, về lịch sử, thẩm mĩ..., những thứ mà ở các nền giáo dục phát triển, người ta dạy học sinh ngay từ cấp học phổ thông.
-Nói thế cũng có nghĩa chúng ta chỉ có thể kỳ vọng vào sự cất cánh nếu chính nền giáo dục nội địa của chúng ta đến một ngày nào đó có thể tạo ra những trí thức tầm vóc...?
- Đúng vậy! Chúng ta phải trông đợi và hy vọng vào nền giáo dục của chính chúng ta, với văn hoá của chúng ta, chứ không phải một nền giáo dục tị nạn hay một phong trào giáo dục tị nạn nào khác.
- Thưa Giáo sư, bây giờ chúng ta vẫn hay nghe tới những khái niệm như “trí thức giả, bằng cấp giả”. Theo ông, loại này nhiều không?
- Nhiều chứ!
- Vậy thì sau tất cả, bài học và nhiệm vụ cuối cùng cần rút ra của người trí thức Việt Nam là gì?
- Trí thức Việt Nam cần chung tay thay đổi giáo dục Việt Nam, từ đó hy vọng tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Và từ những ưu - nhược điểm của nền văn hoá mình, bây giờ trí thức Việt Nam phải hướng đến việc kiến tạo không phải một kiểu văn hoá thích nghi, mà phải là văn hoá sáng tạo.
Sáng nay, tôi vừa nói chuyện với ông tân Giám đốc Trung tâm Văn hoá Pháp tại Hà Nội - một giáo sư triết học, và chúng tôi cùng gặp nhau ở suy nghĩ: cái gốc của mọi vấn đề, mọi dân tộc luôn là văn hoá. Kinh tế có thể lúc mạnh lúc yếu, ngay cả một vương triều cũng có thể lúc thịnh lúc suy nhưng văn hoá là cái căn cốt, cái còn lại sau tất cả.
Anh biết không, khi nhận giải Nobel Hòa bình, bà Aung San Suu Kyi của Myanmar từng nói rất hay rằng: “Nước tôi đã trải qua những sự thăng trầm, những giai đoạn khó khăn, nhưng nước tôi chắc chắn sẽ đi lên, vì ở nước tôi, văn hoá Phật giáo vẫn còn nguyên đó”.
- Xin chân thành cảm ơn ông!
"Nếu người tài không được trọng dụng hoặc chỉ được trọng dụng một cách hình thức thì đúng là sẽ còn mất nữa. Bởi tôi biết có những người tài - những nhà trí thức lớn cũng rất muốn về nước, nhưng họ lo ngại là về nước thì có được trọng dụng một cách đúng nghĩa, đích thực hay không? Khi nào các nhân tài có sẵn trong nước được trọng dụng thì họ sẽ nhìn vào đấy và sẽ trở về. Theo tôi, cũng chẳng cần có một chính sách ưu đãi đặc biệt nào dành riêng cho trí thức Việt kiều đâu, bởi trí thức là trí thức, ở trong nước hay ở nước ngoài cũng vậy thôi" - GS Chu Hảo |
Theo Phan Đăng(An ninh thế giới Giữa tháng - Cuối tháng)
" alt="'Chỉ có thể cất cánh với những trí thức tầm vóc'"/>
'Chỉ có thể cất cánh với những trí thức tầm vóc'