Cũng theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, Indonesia và Thái Lan là hai thị trường mà Việt Nam nhập khẩu nhiều ô tô nhất. Đáng chú ý, Indonesia đã vượt Thái Lan để là quốc gia số 1 về xuất khẩu ô tô vào thị trường Việt Nam với 72.671 chiếc (chiếm 41,9%).
Tuy nhiên, tổng giá trị kim ngạch của xe Indonesia lại không cao, chỉ đạt 1,05 tỷ USD. Trong khi đó với số lượng nhỏ hơn một chút (với 72.032 chiếc, chiếm 41,5%) nhưng tổng giá trị kim ngạch của xe Thái Lan lại đạt tới 1,43 tỷ USD.
Trung Quốc vẫn chiếm vị trí thứ 3 với 17.340 xe xuất khẩu vào Việt Nam, chiếm khoảng 10,0% với kim ngạch đạt khá cao, tới 714,5 triệu USD. Xe nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu xe tải, xe chuyên dụng có giá trị đơn chiếc khá cao.
Riêng ba thị trường nêu trên đã chiếm đến 93,4% lượng xe nhập khẩu của cả nước. Ngoài ra, Việt Nam cũng nhập khẩu ô tô từ các quốc gia khác như Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,... với tổng số lượng 11.424 chiếc, chiếm 6,6%.
Trước đó, số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, lượng xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước tháng 12/2022 ước đạt 39.700 chiếc, tăng mạnh khoảng 3% so với tháng 11 (với 38.600 chiếc) và tăng tới 11,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Kết quả này đã đưa tổng lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước cả năm 2022 ước tính lên tới 439.600 chiếc, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hoàng Hiệp
Mời bạn đọc cộng tác, gửi tin bài về Ban Ô tô xe máy theo email: [email protected]. Các nội dung phù hợp sẽ được đăng tải. Xin cảm ơn!
Đây là thành công bước đầu trong lộ trình thực hiện các giải pháp nhằm hồi hương ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo'. Trong thời gian tới, Bộ VHTT&DL sẽ nỗ lực phối hợp với Bộ Ngoại giao cùng một số bộ ngành, tổ chức, cá nhân để huy động mọi nguồn lực nhằm 'hồi hương' ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo' về nước trong thời gian sớm nhất.
Quyết tâm sưu tầm, hồi hương ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo' trở về Việt Nam không chỉ để bổ sung, hoàn thiện các sưu tập cổ vật, bảo vật, di sản văn hóa bị thất lạc, “chảy máu” ra nước ngoài mà còn khẳng định vị thế, tầm ảnh hưởng của dân tộc; khẳng định sự đúng đắn, tiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về quan điểm bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, nâng cao tự tôn dân tộc của thế hệ trẻ trên trường quốc tế, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới. Đây cũng là việc làm rất có ý nghĩa đảm bảo tính toàn vẹn của di sản văn hóa - một nội dung quan trọng mà UNESCO rất chú trọng trong bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời thể hiện vai trò của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế tại các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo' là di sản văn hóa của Việt Nam, là một minh chứng biểu trưng cho quyền lực chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định trong tiến trình lịch sử của Việt Nam.
Theo Đại Nam thực lục của Quốc Sử quán triều Nguyễn, ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo' được đúc vào ngày Giáp Thìn, mùng 4 tháng Hai năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823). Ấn có nuốm (quai) làm rồng cuốn hai tầng, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân, bằng vàng 10 tuổi, nặng 180 lạng (chính xác là 280 lạng) 9 đồng 2 phân. Phàm chiếu như sắc dụ đều đóng ấn ấy. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, vào năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), dụ rằng: Ấn báu của nhà nước là để làm việc tuyên bố mệnh lệnh, chỉ bảo rõ ràng những việc phải làm, về khí cụ thì cực kỳ quan trọng, về điển lệ cực kỳ to lớn… Gặp có khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ, cùng là các cáo dụ các thân huân (người thân và người có công), đi tuần thú để xem xét các địa phương, mọi điển lệ long trọng ấy và ban sắc, thư cho ngoại quốc, thì dùng ấn 'Hoàng đế chi bảo'. Như vậy, rõ ràng, 'Hoàng đế chi bảo' là ấn vàng lớn nhất, đẹp nhất, quý nhất và quan trọng nhất của vương triều Nguyễn.
Ấn vàng 'Hoàng đế chi bảo' được dùng cho các hoạt động công quyền, chính sự của triều Nguyễn (vào dịp lễ khánh tiết, ban ân, xá tội, đi tuần thú các địa phương, cùng với sắc thư ban cho nước ngoài...), phản ánh một giai đoạn trong tiến trình lịch sử của quốc gia - dân tộc Việt Nam, là di sản văn hóa quý báu của Nhà nước Việt Nam.
Việc sưu tầm, đưa ấn về Việt Nam, để bổ sung bộ sưu tập Kim Ngọc Bảo Tỷ và hoàn thiện nội dung trưng bày về triều Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt Nam của Bảo tàng Lịch sử quốc gia là hết sức ý nghĩa và cấp thiết.
Kinh nghiệm thực tiễn về việc “hồi hương” cổ vật Theo kinh nghiệm quốc tế, việc kiểm chứng tính xác thực của cổ vật được đấu giá cơ bản dựa trên sự bảo đảm, uy tín của các hãng đấu giá. Trên thực tế, Việt Nam đã nhận một số cổ vật có nguồn gốc Việt Nam “hồi hương” về nước theo 3 hình thức: - Cá nhân, tổ chức vận động quyên góp, mua cổ vật và hiến tặng về nước (chuông chùa Ngũ Hộ được đưa từ Tokyo, Nhật Bản về Bắc Ninh năm 1978). - Cá nhân, tổ chức đấu giá từ nước ngoài và hiến tặng về nước (như xe kéo của Hoàng Thái hậu Từ Minh được đưa về Huế năm 2015, cổ vật mũ quan đại thần và áo Nhật Bình triều Nguyễn cho Huế năm 2022). - Chính phủ các nước tự nguyện trả cổ vật của Việt Nam thu được từ các cuộc điều tra buôn bán trái phép cổ vật (18 cổ vật nhận từ Đức năm 2018, một số cổ vật Đông Sơn nhận từ Hoa Kỳ năm 2022). |
Điều này để tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sáng tạo trong việc phát huy các giá trị của di sản văn hóa.
GS Trần Ngọc Đường bày tỏ băn khoăn, hiện nay di sản phái sinh được tạo tác từ quá trình nghiên cứu và sáng tạo dựa trên di sản văn hóa thuộc về cộng đồng hay thuộc về người nghiên cứu và sáng tạo; nghiên cứu, sáng tạo với tỷ lệ bao nhiêu thì được đăng ký bản quyền.
Những vấn đề còn gây tranh cãi vì chưa có khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của những người nghiên cứu, sáng tạo phát huy giá trị của di sản văn hóa. Vì vậy, Luật Di sản văn hóa lần này phải có những quy định rõ ràng về vấn đề này.
Ngoài ra, ông cũng nêu thực tế hiện nay, việc bắt tay giữa di sản văn hóa và công nghệ đang thúc đẩy sự hình thành các khái niệm mới về di sản số, di sản phái sinh… Tuy nhiên nội dung này cũng chưa được luật hóa để hình thành chính sách pháp lý phù hợp, khuyến khích phát triển các sản phẩm số dựa trên di sản.
Do đó, những người nghiên cứu, sáng tạo trong lĩnh vực này cho rằng nếu nghiên cứu đưa di sản số trở thành một khái niệm chính thức trong Luật Di sản văn hóa và có các quy định về chính sách đầu tư, chính sách về bản quyền… sẽ thúc đẩy người làm công nghệ có sản phẩm số hóa mang tính ứng dụng cao trong đời sống để di sản văn hóa thật sự phát huy giá trị.
GS Trần Ngọc Đường cũng lưu ý, dự thảo luật nặng về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa. Còn sự thụ hưởng, trách nhiệm của công dân và cộng đồng dân cư đối với các giá trị văn hóa dường như chưa được chú ý đúng mức.
Ông phân tích thêm, quản lý và bảo vệ là để được thụ hưởng và gắn với trách nhiệm, không thể gộp chung quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân đối với di sản văn hóa vào chung một điều.
Mỗi chủ thể có quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm riêng của mình nhất là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu di sản văn hóa hoàn toàn khác với người không phải là chủ sở hữu.
Vì vậy, theo ông Đường, dự luật cần phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không phải là chủ sở hữu di sản văn hóa.
Nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ
Ông Trương Minh Tiến, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội quan tâm đến vấn đề sở hữu di sản văn hóa, sở hữu toàn dân, sở hữu chung và riêng.
Theo ông Tiến, di sản văn hóa cũng là một tài sản, được xác lập quyền sở hữu có người đại diện quyền sở hữu. Riêng hình thức sở hữu toàn dân về di sản văn hóa, nhất là về di tích đình, chùa, miếu… là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân ở các làng, thôn hiện chưa được xác định rõ người đại diện.
Vì vậy, ông Tiến cho rằng, sửa đổi luật lần này cần phải quy định rõ người đại diện sở hữu. Trên thực tế, đang có sự lúng túng ở cơ sở về quản lý, bảo vệ, tu bổ, phát huy giá trị ở nhiều địa phương, nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ.
Ngoài ra, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội cũng kiến nghị các ngành chức năng cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn việc xác định quyền sở hữu, mua bán cổ vật. Làm tốt được việc này thì sẽ góp phần giảm tình trạng mất cắp hiện vật và cổ vật ở các di tích.
TS. Nguyễn Xuân Năng, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cũng kiến nghị nên phân định cấp độ khác nhau giữa di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia để có ứng xử phù hợp.
Ông Năng thông tin, hiện mới có 300 hiện vật là bảo vật quốc gia. Chính vì vậy phải coi bảo vật quốc gia là tài sản đặc thù, có giá trị đặc biệt và thuộc loại hiện vật quý hiếm, không cho phép kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Còn với cổ vật, cấm kinh doanh ở nước ngoài nhưng nên cho phép mua bán, kinh doanh trong nước. Bởi vì, hiện nay những phiên đấu giá cổ vật diễn ra rất nhiều ở các địa phương, nếu quy định cấm kinh doanh tất cả thì chưa hợp lý.
Ông Năng cũng đề xuất, với di vật không phải là những hiện vật thuộc dạng quý hiếm hay có giá trị tiêu biểu hay đặc biệt tiêu biểu như cổ vật và bảo vật quốc gia có thể cho phép mua bán cả trong và ngoài nước. Như vậy các bảo tàng mới có cơ hội sưu tầm được nhiều hiện vật phục vụ trưng bày giới thiệu cho công chúng.