Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 180 ngày kể từ ngày ban hành quyết định thành lập đoàn kiểm tra, trường hợp cần thiết có thể quyết định gia hạn thời gian giải quyết nhưng không quá 60 ngày.
Đoàn kiểm tra nghiên cứu đơn tố cáo, xây dựng đề cương yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo báo cáo giải trình; dự kiến lịch làm việc của đoàn kiểm tra, nội quy hoạt động, phân công nhiệm vụ từng thành viên đoàn kiểm tra; chuẩn bị các văn bản, tài liệu có liên quan.
Văn phòng Trung ương Đảng bảo đảm kinh phí và các điều kiện cần thiết phục vụ đoàn kiểm tra thực hiện nhiệm vụ.
Quy trình kép với đảng viên tự giác nhận hình thức kỷ luật tương xứng
Bước tiếp theo, đoàn kiểm tra hoặc đại diện đoàn kiểm tra triển khai quyết định, kế hoạch giải quyết tố cáo, thống nhất lịch làm việc với tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo và đại diện tổ chức đảng quản lý đảng viên; yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo chuẩn bị báo cáo theo đề cương, cung cấp hồ sơ, tài liệu; chỉ đạo tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp thực hiện.
Tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo chuẩn bị báo cáo giải trình bằng văn bản và hồ sơ, tài liệu có liên quan gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư (qua đoàn kiểm tra).
Đoàn kiểm tra nghiên cứu báo cáo, hồ sơ, tài liệu và chứng cứ nhận được; tiến hành thẩm tra, xác minh, làm việc với người tố cáo, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung tố cáo và tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo.
Trong quá trình thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra gặp và làm việc trực tiếp với người tố cáo (nếu cần) để xác định lại, giải trình, bổ sung và làm rõ thêm về nội dung tố cáo; hướng dẫn người tố cáo thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo theo quy định.
Khi cần điều chỉnh, bổ sung về nội dung, thời gian giải quyết, yêu cầu cần đánh giá, thẩm định, giám định chuyên môn, kỹ thuật của các cơ quan chức năng để làm căn cứ kết luận nội dung tố cáo thì đoàn kiểm tra báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định.
Đoàn kiểm tra xây dựng dự thảo báo cáo kết quả giải quyết tố cáo. Trường hợp vi phạm đã rõ, đến mức phải kỷ luật và tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo tự giác kiểm điểm và nhận hình thức kỷ luật tương xứng với hành vi vi phạm thì trưởng đoàn kiểm tra báo cáo Thường trực Ban Bí thư cho kết hợp thực hiện quy trình thi hành kỷ luật cùng với quy trình giải quyết tố cáo (thực hiện quy trình kép).
Trong khi thực hiện kiểm tra, xác minh nếu phát hiện tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm khác thì trưởng đoàn báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hoặc giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
Đồng thời đưa kết luận nội dung tố cáo vào báo cáo kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm để xem xét, kết luận chung; đồng thời lập hồ sơ kết thúc việc giải quyết tố cáo.
Sau đó, tổ chức hội nghị thông qua báo cáo kết quả giải quyết tố cáo.
Tại hội nghị, đoàn kiểm tra thông qua báo cáo kết quả giải quyết tố cáo; tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo trình bày ý kiến giải trình, tự nhận hình thức kỷ luật (nếu có); hội nghị thảo luận, tham gia ý kiến; bỏ phiếu đề nghị hình thức kỷ luật (nếu có).
Đoàn kiểm tra tiếp tục thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ hoặc có ý kiến khác nhau; hoàn chỉnh dự thảo báo cáo kết quả giải quyết tố cáo.
Đoàn kiểm tra phổi họp với Văn phòng Trung ương Đảng báo cáo Thường trực Ban Bí thư quyết định thời gian, thành phần hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư; gửi báo cáo giải quyết tố cáo và hồ sơ, tài liệu đến các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư theo quy chế làm việc.
Bước kết thúc giải quyết tố cáo, hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, kết luận (nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì đoàn kiểm tra báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo trước khi trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng).
Tại hội nghị, đoàn kiểm tra báo cáo kết quả giải quyết tố cáo; trình bày đầy đủ ý kiến của tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo và người tố cáo, các tổ chức đảng, đảng viên có liên quan.
Hội nghị thảo luận, kết luận; bỏ phiếu quyết định hình thức kỷ luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm (nếu thực hiện quy trình kép).
Đoàn kiểm tra hoàn thiện thông báo kết luận giải quyết tố cáo, quyết định kỷ luật hoặc báo cáo đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật trình Thường trực Ban Bí thư ký ban hành.
Phương pháp Ngữ pháp - Dịch (GTM) đã chiếm ưu thế trong việc giảng dạy tiếng Anh. Phương pháp này tập trung vào việc ghi nhớ quy tắc ngữ pháp và từ vựng, chủ yếu qua ngôn ngữ viết và các bài tập dịch. Mặc dù nó cung cấp một nền tảng cấu trúc cho việc học ngôn ngữ nhưng thường bỏ qua việc phát triển kỹ năng giao tiếp thực tiễn.
Kết quả là học sinh tốt nghiệp thường có kiến thức lý thuyết về tiếng Anh nhưng lại khó sử dụng ngôn ngữ hiệu quả trong các tình huống thực tế.
Các nhà hoạch định chính sách Bangladesh nhận thức rõ rằng khả năng giao tiếp hiệu quả là yếu tố then chốt cho sự thành công, từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách về việc cải cách hệ thống giáo dục nhằm khắc phục những thiếu sót.
Bước ngoặt trong chính sách ngoại ngữ
Những năm 1990 đánh dấu bước ngoặt cho giáo dục tiếng Anh tại Bangladesh. Hội đồng Chương trình Quốc gia về Sách giáo khoa Bangladesh (NCTB) đã giới thiệu Phương pháp Giảng dạy Ngôn ngữ Giao tiếp (CLT) vào năm 1996, theo nghiên cứu của Kabir trên The Qualitative Report.
CLT nhấn mạnh sự tương tác như phương thức chính để tiếp thu ngôn ngữ, khuyến khích các hoạt động giúp học sinh phát triển kỹ năng nói, nghe, đọc và viết trong bối cảnh thực tế.
Sự chuyển đổi này khởi động từ Dự án Cải tiến giảng dạy Ngôn ngữ Anh (ELTIP) nhằm nâng cao việc dạy và học tiếng Anh ở tất cả các cấp học.
Bộ sách giáo khoa mới cho lớp 9-10 và 11-12 đã được giới thiệu để hỗ trợ chương trình này, với mục tiêu giúp học sinh không chỉ nắm vững ngữ pháp tiếng Anh mà còn giao tiếp hiệu quả.
Tuy vậy, việc chuyển từ tập trung vào học ngữ pháp sang giao tiếp gặp nhiều thách thức.
Kết quả học tập của học sinh chưa đạt kỳ vọng, chủ yếu do thiếu cơ sở hạ tầng và tài nguyên phù hợp. Nhiều lớp học vẫn duy trì lối học thuộc lòng, thiếu môi trường tương tác cần thiết. Không ít giáo viên tiếng Anh được đào tạo theo chương trình chỉ tập trung vào ngữ pháp nên khó áp dụng phương pháp giao tiếp mới.
Nỗ lực cải cách giáo dục tiếng Anh
Trong vài thập kỷ gần đây, chính phủ Bangladesh đã nỗ lực đồng bộ hóa chính sách giáo dục với các mục tiêu phát triển quốc gia. Chính sách Giáo dục Quốc gia năm 2010 nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng Anh trong việc biến Bangladesh thành một "Bangladesh Kỹ thuật số" vào năm 2021.
Chính phủ nhận thức rằng tiếng Anh không chỉ là một môn học trong chương trình giảng dạy mà còn là một kỹ năng thiết yếu cho sự phát triển quốc gia trong các lĩnh vực như khoa học, công nghệ, kinh doanh và giao tiếp.
Chính sách này nêu rõ các mục tiêu liên quan đến giáo dục tiếng Anh, nhằm trang bị cho học sinh các kỹ năng ngôn ngữ cần thiết để tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Chính phủ cũng khởi động một số chương trình nhằm đào tạo năng lực giáo viên và cải thiện tài nguyên trong giảng dạy tiếng Anh.
Kỹ năng tiếng Anh cũng được thúc đẩy ở các cộng đồng nông thôn và yếu thế. Các chương trình đặc biệt đã được triển khai để cung cấp quyền tiếp cận giáo dục tiếng Anh cho học sinh ở các khu vực xa xôi và đảm bảo sự khác biệt về địa lý không cản trở cơ hội học ngôn ngữ.
Năm 2012, Bangladesh ghi nhận hơn 17 triệu trẻ em học tiếng Anh, khiến nước này từng trở thành một trong những nơi có nhiều học sinh học tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai nhất thế giới.
Dù còn gặp nhiều thách thức nhưng đã có những cải thiện trong năng lực tiếng Anh tại Bangladesh. Theo xếp hạng chỉ số thông thạo Anh ngữ của tập đoàn giáo dục quốc tế Thụy Sĩ EF Education First (EF EPI) năm 2023, Bangladesh được đánh giá ở mức độ “thông thạo trung bình”, xếp thứ 8 tại châu Á, trên Ấn Độ, Indonesia và Nhật Bản.