Chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo trình độ giáo dục đại họcTừ ngày 7/8,Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực và thay thế Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT về chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo trình độ giáo dục đại học.
Theo quy định tại Thông tư 07/2015/TT-BGDĐT, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo trình độ giáo dục đại học được chia thành 3 tiêu chí: Kiến thức; Kỹ năng; Năng lực tự chủ và trách nhiệm.
Còn theo Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, chuẩn đầu ra là yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của người học sau khi hoàn thành một chương trình đào tạo, gồm cả yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, mức độ tự chủ và trách nhiệm của người học khi tốt nghiệp.
 |
Các sĩ tử tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021 để lấy kết quả xét tuyển vào đại học. Ảnh: Thanh Tùng |
Chuẩn đầu ra được quy định như sau:
- Phải rõ ràng và thiết thực, thể hiện kết quả học tập mà người tốt nghiệp cần đạt được về hiểu biết chung và năng lực cốt lõi ở trình độ đào tạo, những yêu cầu riêng của lĩnh vực, ngành đào tạo.
- Phải đo lường, đánh giá được theo các cấp độ tư duy làm căn cứ thiết kế, thực hiện và cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và cấp văn bằng cho người học.
- Phải nhất quán với mục tiêu của chương trình đào tạo, thể hiện được sự đóng góp rõ nét đồng thời phản ánh được những yêu cầu mang tính đại diện cao của giới tuyển dụng và các bên liên quan khác.
- Phải chỉ rõ bậc trình độ cụ thể và đáp ứng chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng, mức độ tự chủ và trách nhiệm, năng lực cần thiết theo quy định cho bậc trình độ tương ứng theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam.
- Phải bảo đảm tính liên thông với chuẩn đầu vào của trình độ đào tạo cao hơn (nếu có), đồng thời tạo cơ hội liên thông ngang giữa các chương trình cùng trình độ đào tạo, nhất là giữa các chương trình thuộc cùng nhóm ngành hoặc cùng lĩnh vực.
- Phải được cụ thể hóa một cách đầy đủ và rõ nét trong chuẩn đầu ra của các học phần và thành phần trong chương trình đào tạo, đồng thời được thực hiện một cách có hệ thống qua liên kết giữa các học phần và các thành phần.
- Phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp với khối lượng chương trình để phần lớn người học đã đáp ứng chuẩn đầu vào có khả năng hoàn thành của chương trình đào tạo trong thời gian tiêu chuẩn.
Các quy định mới về đào tạo trình độ tiến sỹ
Từ ngày 15/8,Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ có hiệu lực và thay thế Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT.
 |
Có nhiều thay đổi trong đào tạo tiến sĩ thời gian tới |
Theo Thông tư 18, có một số thay đổi trong đào tạo trình độ tiến sĩ
Cụ thể, quy định hiện hành quy định thời gian gia hạn tối đa là 24 tháng. Còn Thông tư 18 quy định thời gian đào tạo tiêu chuẩn của trình độ tiến sĩ từ 3 năm (36 tháng) đến 4 năm (48 tháng); Nghiên cứu sinh được phép hoàn thành chương trình đào tạo sớm hơn so với kế hoạch học tập, nghiên cứu toàn khóa không quá 1 năm (12 tháng), hoặc chậm hơn so với kế hoạch học tập, nghiên cứu toàn khóa nhưng tổng thời gian đào tạo không vượt quá 6 năm (72 tháng).
Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện theo hình thức chính quy; nghiên cứu sinh phải dành đủ thời học tập, nghiên cứu tại cơ sở đào tạo theo kế hoạch đã được phê duyệt; trong đó khi đăng ký đủ 30 tín chỉ trong một năm học được xác định là tập trung toàn thời gian.
Các quy định về công bố khoa học khi dự tuyển, yêu cầu đầu ra của nghiên cứu sinh, số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn tại cùng thời điểm, minh chứng năng lực nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn, phản biện độc lập, hội đồng đánh giá luận án ở cơ sở đào tạo… cũng có sự thay đổi so với Thông tư 08.
Đối tượng tuyển sinh trình độ cao đẳng, trung cấp
Từ ngày 22/8,Thông tư 05/2021/TT-BLĐTBXH có hiệu lực và thay thế Thông tư 05/2017/TT-BLĐTBXH, Thông tư 07/2019/TT-BLĐTBXH.
Thông tư 05/2021/TT-BLĐTBXH quy định về đối tượng tuyển sinh trình độ cao đẳng, trung cấp như sau:
Đối với trình độ trung cấp:Học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở và tương đương trở lên.
Đối với trình độ cao đẳng:Người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông (Hiện hành, có quy định trường hợp “tương đương”).
- Người có bằng tốt nghiệp trung cấp và có giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông hoặc giấy chứng nhận đủ yêu cầu khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông hoặc đã học và thi đạt yêu cầu đủ khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông theo quy định.
Trường hợp người học dự tuyển vào các nghề đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe; nghệ thuật và an ninh, quốc phòng ngoài các quy định trên còn phải thực hiện theo các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan và hướng dẫn của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đang làm việctại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; quân nhân, công an nhân dân tại ngũ; người nước ngoài, nếu có đủ một số điều kiện sẽ được đăng ký dự tuyển học trình độ trung cấp, cao đẳng.
Phương Chitổng hợp

PTT Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ GD-ĐT tiếp thu ý kiến về chuẩn tiến sĩ mới
Ngày 15/7, Văn phòng Chính phủ có công văn gửi Bộ GD-ĐT thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ vừa ban hành.
" alt="Những chính sách giáo dục quan trọng có hiệu lực từ tháng 8/2021"/>
Những chính sách giáo dục quan trọng có hiệu lực từ tháng 8/2021
TS Phạm Sỹ Liêm nhấn mạnh đến những sai lầm mà Hà Nội từng mắc phải để lưu ý việc phá dỡ nhà máy dệt Nam Định xây dựng đô thị.TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng đã có những chia sẻ với Đất Việt xung quanh việc phá dỡ nhà máy dệt Nam Định để xây dựng khu đô thị.
PV: Mới đây, nhà máy dệt Nam Định được phá đi để xây dựng khu đô thị. Trước đó, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy Dệt 8/3, nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà... cũng đã biến thành khu đô thị. Ông bình luận như thế nào trước thực trạng những biểu tượng của nền công nghiệp Việt Nam một thời nay đã và đang trở thành khu đô thị? Đây liệu có phải là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển đô thị, cũng như sự phát triển của nền kinh tế hay không và vì sao?
TS Phạm Sỹ Liêm:Trước đây theo quy hoạch dệt thì Nam Định cũng là một trung tâm công nghệ dệt của Việt Nam được phát triển. Nhưng hiện nay nhà máy dệt Nam Định cũ không còn phù hợp, công nghệ phải thay đổi. Thứ hai là nhà máy bị bao vây bởi đô thị, dân cư đông đúc. Cho nên nếu tiếp tục thì phải đưa ra một khu công nghiệp ở bên ngoài thành phố chứ không thể như ngày xưa được nữa.
 |
TS Phạm Sỹ Liêm lưu ý việc phá dỡ nhà máy dệt Nam Định để xây dựng đô thị. |
Việc di chuyển này tôi nghĩ là đúng, phù hợp với hoàn cảnh hiện nay chứ không phải hệ quả của quá trình phát triển đô thị hay sự phát triển của nền kinh tế gì cả. Nhà máy dệt Nam Định cũng giống như nhà máy Rạng Đông, Cơ khí Hà Nội ngày trước. Ban đầu được xây dựng ở ngoại thành rất xa, sau đó TP mở rộng mới ôm lại.
Còn kế hoạch lâu dài, cụ thể thì phụ thuộc vào quy hoạch của TP Nam Định. Việc dùng cái gì phải dựa vào quy hoạch và quy hoạch đó hiển nhiên phải được Bộ Xây dựng duyệt, tham gia ý kiến.
Thế nhưng nếu quy hoạch thì phải cân đối lại TP Nam Định cũ xem thiếu cái gì, chứ không phải đưa đi đấu giá, bán đất cho làm kinh doanh bất động sản thành những khu nhà ở, nhà chung cư. Chúng ta có thể xây dựng một phần nào đó nhưng phải phụ thuộc vào quy hoạch. Chúng ta từng mắc sai lầm ở Hà Nội trong các dự án khu Nhà máy Dệt 8/3, Nhà máy Cơ khí Hồng Hà bị biến thành khu đô thị, nhà ở.
Khi đó những người có trách nhiệm lý sự rằng di chuyển nhà máy ra chỗ mới thì phải mua đất, giải phóng mặt bằng, bán chỗ cũ để có vốn đầu tư. Và khi bán thì chỉ có mấy doanh nghiệp kinh doanh bất động sản mua và họ tận dụng từng m2 đất.
Hậu quả là người ở đông thêm, thêm nhà, nhà cửa trong khu đô thị kéo thêm tắc nghẽn, thêm ô nhiễm môi trường và thiếu dịch vụ. Đó là điều hết sức sai lầm.
Thực chất, nghị định năm 2008 của chính phủ về chống ùn tắc giao thông trong đô thị thì có chủ trương đầu tiên là di chuyển các nhà máy, trường học, bệnh viện đông người ra ngoài để giảm ùn tắc. Tôi cho rằng mục đích thì tốt nhưng phương thức thực hiện thì sai.
PV:Chưa bàn đến vấn đề đất vàng cổ phần hóa bị biến thành dự án đô thị, thưa ông, sự chết đi của các biểu tượng ngành công nghiệp một thời ở Việt Nam có được coi là cảnh báo cho nền kinh tế? Chúng ta đã nói quá nhiều tới việc doanh nghiệp Việt chỉ tham gia được vào việc làm bao bì cho Samsung hay không thể làm được cái trục khuỷu, đây có phải là hệ quả của chính sách kinh tế chỉ đặt mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn dẫn đến những sự chuyển đổi nói trên hay không?
TS Phạm Sỹ Liêm:Việc chết đi của các biểu tượng ngành công nghiệp một thời ở Việt Nam không thể coi là cảnh báo cho nền kinh tế được. Tôi cho rằng nó làm xuất hiện thêm nhiều ngành công nghiệp mới mà ngày trước không có như điện, điện tử... Việc những ngành công nghiệp lạc hậu mất đi để thay bằng ngành mới, cái này phù hợp với quy luật hiện nay.
Tuy nhiên bây giờ phá dỡ thì tôi đề nghị chúng ta nên lưu lại một phần nhà máy để làm di sản, để tham quan, để các thế hệ sau biết đến nhà máy dệt Nam Định, từng là biểu tượng của ngành công nghiệp.
Còn chuyện doanh nghiệp Việt chỉ tham gia được vào việc làm bao bì cho Samsung hay không thể làm được cái trục khuỷu thì tôi cho rằng cái này là do thị trường yêu cầu. Nếu Sam sung không vào Việt Nam thì cũng chẳng ai yêu cầu làm đinh ốc. Có doanh nghiệp vào thì chúng ta phải phát triển các ngành công nghiệp phụ kèm theo. Vấn đề quan trọng ở đây là chính sách.
Một là nhìn trước được khi Samsung vào thì công nghiệp phụ trợ kèm theo là gì thì phải đồng bộ phát triển. Muốn đồng thời phát triển được thì phải có chính sách khuyến khích. Chẳng hạn như cho phép thuế giá trị gia tăng giảm, giảm lãi suất cho vay thì doanh nghiệp mới ham đầu tư, dẫn đến các chủ đầu tư sẽ tự nhiên vào thôi.
Tôi cho rằng chúng ta phải làm những chi tiết nhỏ như trên thì mới lên được những cái chính, cái quan trọng. Như ngành công nghiệp lắp ráp ô tô của chúng ta, ban đầu có nhiều hạn chế nhưng dần dần chúng ta cũng đã tăng lên được một chút.
PV:Không đặt ưu tiên hàng đầu cho các ngành sản xuất, người dân sẽ chỉ cạnh tranh đi làm thuê cho nước ngoài, hoặc sẽ bị thất nghiệp. Theo quan sát của ông, hệ lụy của vấn đề này đã được lường tới chưa? Ông hình dung như thế nào về những hệ lụy này?
TS Phạm Sỹ Liêm:Vấn đề ở đây là tư duy, người đứng đầu. Nếu người đứng đầu có chí lớn sẽ lan tỏa vào dân. Ở đây trong phát triển kinh tế cũng thế.
Ví dự như Hàn Quốc. Họ tay không, mọi thứ chẳng có nhưng chí của họ lớn, không phải chí đi làm thuê, chí dựa vào đầu tư nước ngoài và đã rất thành công. Chí của Việt Nam là dựa vào đầu tư nước ngoài, khoe xem thu hút được bao nhiêu đầu tư, chứ tôi không thấy nói đến việc mình đầu tư như thế nào, phát triển bằng cách nào.
Chúng ta chấp nhận đánh đổi để sở hữu vốn, công nghệ. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp muốn đầu tư vào Việt Nam là kiểu muốn xuất khẩu ô nhiễm sang Việt Nam, như một loạt nhà máy xi măng ở miền Trung, nhà máy gang, nhà máy dệt... Không phải ở nước sở tại họ không làm được, mà họ muốn đẩy sang Việt Nam dẫn đến những vấn đề ô nhiễm môi trường rất cao.
Ngoài tư duy ra thì vấn đề thứ hai cần quan tâm là tầm nhìn. Có tư duy thì mới có tầm nhìn. Tôi cho rằng không ai bắt Việt Nam từ lạc hậu lên giỏi ngay được. Nhưng chúng ta phải học dần dần.
Thứ ba là hiện nay chúng ta vẫn duy trì tư duy phân cấp. Việc cho địa phương, doanh nghiệp quyết định nên nhiều dự án triển khai lãng phí, không phù hợp. Vì thế ai cũng muốn sân bay, cầu cảng, tạo khu công nghiệp trên rừng, thủy điện trong rừng... nhưng cuối cùng có hiệu quả đâu.
PV:Nhiều người còn bi quan rằng, chẳng lẽ Việt Nam định hội nhập bằng những dự án khu đô thị, bất động sản. Ông đồng tình ở mức độ nào với nhận định nói trên? Liệu có thể trả lời câu hỏi, Việt Nam lấy gì để hội nhập, để cạnh tranh sòng phẳng với các nền kinh tế đã phát triển trên thế giới, như thế nào?
TS Phạm Sỹ Liêm:Hội nhập ở đây có thể hiểu là mượn thuyền để ra biển. Tức là chúng ta thuyền nhỏ không ra được biển nên cần mượn thuyền lớn để ra đó, chứ không phải nhờ luôn họ để ra biển.
Đằng này Việt Nam chỉ mang tâm lý đi nhờ...và công bố thành tích đã đạt được. Như thế thì sao đưa đất nước đi lên được. Vì thế tôi cho rằng cần xem lại quá trình hội nhập để điều chỉnh cho phù hợp.
PV:Cảm ơn TS Phạm Sỹ Liêm đã chia sẻ với Đất Việt!
Theo Báo Đất Việt
" alt="Nhà máy Dệt Nam Định"/>
Nhà máy Dệt Nam Định